14.
Tớ trông thấy hai tên công sai hồi nãy bị bố tớ xua đuổi, giờ đã là hai con sói xám quần áo hẳn hoi, tay tì đốc gươm, chia nhau đứng hai bên cổng. Tớ bị choáng vì sợ, vội nhắm tịt mắt, hy vọng dùng cách đó để cứu mình ra khỏi cơn ác mộng. Khi mở mắt ra, thấy về cơ bản mặt họ đã là mặt người, nhưng tay họ mọc đầy lông dài màu xám, ngón cong như lưỡi câu, tớ đau xót mà nghĩ rằng, cái lông trên người vợ tớ lợi hại hơn nhiều chiếc râu hổ thần thông quảng đại kia! Chiếc râu hổ thì khi anh nắm chặt, nó mới phát huy thần lực, còn cái lông của vợ tớ chỉ cần sờ vào nó, là ma lực của nó đã bám dính lấy anh, cho dù anh giấu kỹ nó hay vứt bỏ nó, anh còn nhớ nó hay đã quên nó!
Sau khi hai tên công sai đứng gác hai bên cổng, cỗ kiệu bốn người khiêng đã hạ xuống mặt đường đá xanh, ngay trước cổng nhà tớ. Bốn phu kiệu, tất nhiên bản tướng của họ là lừa, tuy đôi tai đã giấu trong chiếc mũ ống, nhưng điệu bộ của họ thì thật độc đáo: chân trước vịn đò kiệu, mép sùi bọt trắng, thở phì phò. Xem ra, họ chạy nước rút thì phải, bụi bám đầy ủng. Viên thơ lại họ Điêu phụ trách hình danh – người ta gọi lão là Viên Phu tử, bản tướng của lão là con nhím mõm nhọn – giơ vuốt trước màu phấn hồng vén góc rèm lên. Tớ nhận ra đó là kiệu của Tiền đại nhân. Tiểu Khuê nhổ nước bọt vào cái kiệu này mà gặp đại họa. Tớ biết, người sắp chui ra khỏi kiệu chính là Tiền đại nhân, bố nuôi của vợ tớ. Lý ra, bố nuôi của vợ cũng là bố nuôi của tớ. Tớ rất muốn đi thăm ông ấy, nhưng vợ tớ chết thì chết không chịu. Có trời chứng giám, quan lớn Tiền đối xử không bạc với nhà tớ, đã miễn thuế cho nhà tớ mấy năm rồi. Nhưng ông lớn không nên vì một bãi nước bọt mà đánh thằng Khuê gãy chân, thằng Khuê là bạn tốt của tớ. Nó bảo, anh ngố Giáp này, ông lớn Tiền cho anh cái mũ màu lục, sao không đội? Tớ về nhà hỏi vợ, vợ ơi vợ, thằng Khuê nói là quan lớn Tiền cho tớ cái mũ màu lục, nó thế nào? Sao đằng ấy không cho tớ xem? Hắn mắng tớ:
– Anh ngốc, Khuê là thằng mất dạy, không cho anh chơi với nó nữa! Anh còn với nó là em không ôm anh ngủ nữa đâu. Sau đó chưa đầy ba hôm, thằng Khuê bị đánh gãy chân. Vì một bãi nước bọt mà đánh gãy chân người ta, quan lớn Tiền kể cũng hơi ác, hôm nay đến đây, để xem ông là giống vật nào biến thành?
Tớ trông thấy cái đầu hổ trắng to bằng gốc liễu thò ra ngoài kiệu. Trời ạ, thì ra quan lớn Tiền là do hổ biến thành. Thảo nào mẹ tớ bảo, nhà vua là do rồng biến thành, quan to là do hổ biến thành. Bạch hổ đội mũ màu lam, mặc quan phục màu đỏ, ngực thêu hai quái điểu màu trắng, chim không phải chim, vịt không phải vịt. Ông bề thế hơn bố tớ, ông là con hổ béo, bố tớ là con báo gầy. Ông mặt trắng như mâm bột, bố tớ đen như hòn than. Ông xuống kiệu, khệnh khạng bước vào cổng, đúng là dáng đi của hổ! Lão nhím chạy vượt lên, lớn tiếng thông báo:
– Tri huyện Tiền đại nhân đã tới!
Lão hổ và tớ chạm trán, lão vằn mắt nhìn tớ, tớ sợ quá nhắm mắt lại, chỉ nghe thấy tiếng lão:
– Triệu Tiểu Giáp phải không?
Tớ vội khom người trả lời vâng, kẻ hèn mọn này là Giáp Con.
Nhân lúc tớ nhắm mắt, lão đã giấu được một nửa bản tướng của lão, chỉ còn cái đuôi vẫn thò vạt áo sau, kéo lê dưới đất, bám đầy bụi và nước bẩn, thể nào cũng dụ bọn nhặng xanh đến cho mà xem! Vừa nghĩ như vậy, lũ nhặng đậu trên tường đã bay lên vù vù, xông tới. Chúng đậu trên đuôi, cả trên mũ, tay áo, cổ áo của ông lớn. Ông lớn giọng hòa nhã:
– Giáp Con, vào báo có bản quan tới gặp.
Tớ bảo, mời quan lớn cứ vào, bố tui biết cắn người đấy!
Viên thơ lại vội thu hồi bản tướng nhím của lão, trợn mắt quát:
– Tiểu Giáp to gan! Dám không vâng lời quan lớn, mau vào gọi cha ngươi ra đây!
Quan lớn Tiền giơ tay ngăn cơn thịnh nộ của viên thơ lại, khom người bước vào trong nhà. Tớ vội vào theo để xem giây phút gặp gỡ giữa hổ và báo. Tớ rất muốn họ lập tức trở thành kẻ thù của nhau, gầm gừ, dựng lông gáy lên, tia mắt xanh biếc, răng trắng nhởn. Hổ trắng nhìn chằm chằm báo đen, báo đen nhìn chằm chằm hổ trắng; hổ trắng lượn quanh báo đen, báo đen lượn quanh hổ trắng, không bên nào chịu lép. Mẹ tớ bảo, nói chung thú dữ vào trận, con nào cũng gầm ghè diệu võ giương oai, trước tiên áp đảo đối phương bằng khí thế. Chỉ cần một bên tỏ ra khiếp nhược, cụp tai, kẹp đuôi giữa hai chân, mắt nhìn xuống thấp, là bên kia ào lên ngoạm vài miếng là quị. Chỉ sợ hai bên đều căng, không ai nhường ai, chắc chắn không thoát khỏi một cuộc ác chiến. Không đánh không hay, ác chiến mới hay. Tớ rất mong bố tớ và Tiền đại nhân nổ ra cuộc chiến giữa hổ và báo, không ai nhường ai. Tớ trông thấy họ vờn quanh nhau, càng vờn càng nhanh, bố như một làn khói đen, Tiền đại nhân như một làn khói trắng, từ trong nhà chuyển ra ngoài sân, từ trong sân chuyển ra ngoài đường, xoay tít hoa cả mắt, xoắn lại thành con quay, cuối cùng, hai bên nhập làm một, trong đen có trắng, cuộn thành một quả trứng; trong trắng có đen, bện thành sợi dây thừng. Từ đông cuộn sang tây, từ nam cuộn lên bắc, lúc cuộn lên mái nhà, lúc cuộn xuống giếng sâu. Bỗng một tiếng “ngoao” vang lên như trời long đất lở, cuối cùng, được thua đã được trời đất định đoạt. Tớ trông thấy con hổ trắng và con báo đen cách nhau hơn một trượng, ngồi kiểu chó chực, thè lưỡi liếm vết thương bên vai. Cuộc chiến giữa hổ báo, tớ xem mà đầu váng mắt hoa, thót tim thót bụng, mồ hôi cùng mình. Nhưng vẫn chưa phân thắng bại. Lúc hai người xoắn lấy nhau, tớ rất muốn giúp bố một tay, nhưng không sao thực hiện được.
Tiền đại nhân căm giận nhìn bố tớ, trên mặt nở nụ cười khinh miệt. Bố tớ căm giận nhìn Tiền đại nhân, trên mặt nở nụ cười khinh miệt. Bố tớ thật sự coi khinh viên tri huyện, kẻ đã đánh thằng Khuê sống dở chết dở. Bố tớ thật sự là báo, là lừa, là trâu! Hai người ánh mắt giao nhau, như gươm đao chạm nhau tóe lửa, “lốp bốp” tàn lửa bắn vào mặt tớ, phỏng lên mấy chỗ. Hai người đấu mắt, không ai chịu nhìn đi nơi khác. Tim tớ cứ thập thò ở cổ, há miệng là nó vọt ra, rơi xuống đất biến thành thỏ đồng cụp đuôi chạy trốn, chạy ra khỏi sân, chạy trên đường phố, chó đuổi theo, thỏ chạy càng nhanh, chạy đến dốc Nam, dừng lại ăn cỏ. Cỏ gì? Cỏ mật, ăn thật no, ăn thật nhiều, ăn bấy nhiêu, rồi quay lại. Tớ trông thấy hai vị hổ báo đang lên gân, móng vuốt từ từ giương ra, nhảy xổ vào nhau, xoắn chặt lấy nhau bất cứ lúc nào. Giữa lúc gay cấn đó, vợ tớ từ buồng trong bước ra, hương thơm sực nức, nụ cười trên mặt như đóa hoa hồng, lớp cánh lớp đài nở bung từng đợt. Eo hắn xoắn lại xoắn, mềm như sợi dây thừng. Bản tướng của hắn chỉ lộ ra một thoáng, rồi lại lẩn sau lớp da vừa trắng vừa mịn vừa thơm vừa ngọt. Vợ tớ õng ẹo, quì xuống, cất giọng ngọt hơn mật, chua hơn dấm:
– Dân nữ Tôn Mi Nương bái kiến tri huyện đại nhân!
Vợ tớ vừa quì xuống, lập tức quan lớn Tiền nhũn ra. Ngài liếc ngang, bắt chước tiếng ho của con sơn dương bị trúng phong “khậc khậc khậc, khậc khậc khậc”, rõ ràng là giả vờ, tớ tuy ngố, nhưng vẫn nhận ra. Liếc sang chỗ vợ tớ, ngài không dám nhìn thẳng, không dám ngừng lại lâu, cái nhìn lấm lét, nhảy cóc như bọ ngựa va phải bức tường. Mặt ngài co rúm trông thật thảm hại, không hiểu vì ngượng hay vì sợ. Ngài nói như liên thanh “Miễn lễ miễn lễ, đứng dậy đứng dậy”. Vợ tớ đứng lên, nói:
– Nghe tin quan lớn bắt cha tui giam trong đại lao, được người Tay ban thưởng hậu hĩ, tui đã chuẩn bị rượu thịt đến mừng quan lớn.
Tiền đại nhân cười gượng, ậm ừ một lúc mới trả miếng:
– Bản quan ăn lộc triều đình, đâu dám không tận tâm với chức vụ.
Vợ tớ cười ngặt nghẽo, rồi không kiêng nể gì cả, tiến tới tóm lấy bộ râu đen của quan lớn Tiền, giật giật cái đuôi sam to tướng của ngài – sao mẹ tớ không cho tớ một cái đuôi sam to to một tí – rồi lại bậy bạ đến mức vòng ra sau ghế đàn hương, giật giật cái đuôi sam bé tí của bố tớ.
Hắn nói:
– Hai ông, một người là cha nuôi, một người là cha chồng. Cha nuôi bắt cha đẻ tui, sai cha chồng giết cha đẻ tui. Cha nuôi cha chồng ơi, tính mạng cha đẻ tui nằm trong tay hai vị đấy.
Vợ tớ nói xong câu ấy liền chạy đến xó nhà ho khan. Tớ thương vợ, con cón chạy tới đấm lưng cho hắn. Tớ hỏi, vợ ơi, có phải họ làm đằng ấy giận đến phát ốm phải không? Hắn đứng thẳng lên, nước mắt giàn giụa, giận dữ quát tớ:
– Đồ ngốc, lại còn hỏi? Bà đã có thai, sẽ đẻ cho nhà ngươi một của nợ nối dõi tông đường!
Vợ tớ, miệng chửi tớ, nhưng mắt thì lại nhìn Tiền đại nhân. Bố tớ vẫn ngước nhìn nóc nhà, có lẽ tìm lũ thạch sùng béo múp thường xuyên xuất hiện ở đó. Tiền đại nhân cứ xê dịch đít một cách không tự nhiên, y như đứa trẻ mót ỉa. Tớ trông thấy tóc ông ta ướt đẫm mồ hôi. Thơ lại Điêu tiến lên, vái một vái, nói:
– Ông lớn, hãy làm việc công đã, Viên đại nhân đang đợi trả lời ở công đường.
Quan lớn Tiền lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt, sửa lại chòm râu bị vợ tớ làm rối, bắt chước tiếng sơn dương ho một hồi, rồi mặt lạnh như tiền, cực chẳng đã chắp tay xá một xá, nói:
– Nếu hạ quan không lầm thì ngài chính là “Già” Triệu Giáp tiếng tăm lừng lẫy!
Bố tớ đứng dậy, tay vẫn lần tràng hạt, kiêu hãnh:
– Tiểu dân Triệu Giáp trong tay có chuỗi tràng hạt bằng gỗ đàn hương do Hoàng Thái Hậu đích thân trao tặng, nên không thể quì lạy quan phụ mẫu!
Nói xong, bố tớ giơ cao chuỗi hạt bằng gỗ đàn hương nặng như những viên bi sắt lên khỏi đầu, hình như đang chờ đợi điều gì đó.
Quan lớn Tiền lùi lại một bước, đứng nghiêm, phủi tay áo, quì sụp xuống, trán chạm đất, nói như khóc:
– Thần Huyện lệnh Cao Mật Tiền Đinh chúc Hoàng Thái Hậu sống lâu muôn tuổi!
Quan lớn Tiền chúc xong, đứng dậy, nói:
– Không phải hạ quan đến quấy rối ngài, mà Tuần phủ Sơn Đông Viên đại nhân có lời mời.
Bố tớ không quan tâm lời giải thích của Tiền đại nhân, tay lần tràng hạt, mắt nhìn con thạch sùng trên trần nhà, nói:
– Thưa quan lớn, chiếc ghế đàn hương tiểu dân đang ngồi là của đương kim Hoàng thượng thưởng cho tiểu dân, theo qui định trong quan trường, thấy vật như thấy nhà vua vậy.
Sắc mặt Tiền đại nhân thoắt cái đỏ hơn cả màu gỗ đàn hương, xem ra ông ta rất cáu, nhưng cố kiềm chế. Bố tớ cũng quá quắt, bắt ông lớn lạy một lần đã đảo lộn càn khôn, xóa nhòa trên dưới! Vậy mà còn bắt lạy hai lần! Bố, vừa phải thôi bố ạ. Mẹ tớ bảo, quan xa, bản nha thì gần, vua to thật đấy, nhưng xa tít mù tắp, quan huyện thì nhỏ, nhưng ở ngay trước mặt. Ông ấy chỉ kiếm một cái cớ là bố con mình lãnh đủ, bố, quan lớn Tiền không phải là cây đèn đã cạn dầu. Con đã kể với bố chuyện thằng Khuê chỉ nhổ một bãi nước bọt vào kiệu của ông ta mà bị đánh gãy đùi rồi.
Quan lớn Tiền cố rặn ra một nụ cười nhợt nhạt trên khuôn mặt hầm hầm, nói: Hạ quan học vấn nông cạn, nhưng ít nhiều đã đọc những sách kinh điển… Xưa nay, ở Trung Quốc cũng như ở nước ngoài, không có vị Hoàng đế nào nhường ghế của mình cho người khác, càng không có chuyện đem ghế thưởng cho một tên đao phủ! Già Triệu, ông có nói dóc không đấy? Ông có bạo gan quá không đấy? Sao ông không nói, Hoàng thượng đem cơ đồ ba trăm năm, giang sơn mười vạn dặm nhà Đại Thanh tặng ông có hơn không? Ông sử dụng cây đao ở Bộ Hình bấy nhiêu năm, lẽ ra cũng nên biết đôi chút điển luật của nhà nước, hạ quan xin hỏi, bịa chuyện thánh chỉ, ngụy tạo thánh vật, đem điều tiếng đổ lên đầu Hoàng Thái Hậu và Hoàng Thượng, theo luật phải trị tội gi? Lăng trì hay chém ngang lưng? Giết cả nhà hay giết cả họ?
Bố ơi là bố, mới sáng nứt mắt mà đã nói xằng, họa lớn rồi! Tớ kinh hồn bạt vía, vội quì xuống xin. Tớ nói, Tiền đại nhân, bố tui đắc tội với ngài, ngài có róc thịt đem cho chó ăn cũng đáng. Nhưng vợ chồng tui không làm gì để ngài tức giận, mong ngài nới tay đừng giết cả nhà tui. Nếu ngài giết cả nhà tui, thì lấy ai đem rượu đem thịt cho ngài. Lại nữa, vợ tui vừa nói đã có thai, giết cả nhà thì đợi đẻ xong hãy giết, phải không ạ?
Thơ lại Điêu ngắt lời: Triệu Tiểu Giáp lẩm cẩm quá đấy. Đã giết cả nhà thì nhổ cỏ phải nhổ cả gốc, một mống cũng không còn, lẽ nào còn để cho anh một người nối dõi!
Bố tớ đến trước mặt, đá cho tớ một cái, mắng: “Cút, cái đồ bị thịt! Lúc không có việc thì hiếu thuận đâu ra đấy, vậy mà khi nguy cấp thì chỉ là đồ bỏ đi!” Chửi xong, bố quay lại nói với Tiền đại nhân: “Thưa quan lớn, nếu ngài hoài nghi tôi bịa đặt, bịp bợm người đời, thì sao ngài không vào Kinh hỏi Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng? Nếu ngại xa xôi cách trở, chi bằng ngài về huyện hỏi Viên đại nhân, chắc hẳn ông ta nhận biết chiếc ghế này”.
Lời bố mát nước thối đá, Tiền đại nhân ắng họng. Ngài nhắm mắt thở dài một tiếng, mở mắt nói: “Thôi, hạ quan hiểu biết nông cạn, mong Già Triệu đừng cười!” Ngài xá một xá, phủi tay áo, quì xuống dập đầu một cái thật kêu, gầm lên như chửi nhau ngoài phố: “Thần Cao Mật Huyện lệnh Tiền Đinh kính chúc Hoàng đế của thần sống lâu muôi tuổi!”
Hai bàn tay nhỏ bé lần tràng hạt của bố run lên, vẻ đắc ý không giấu được qua cặp mắt.
Quan lớn Tiền đứng dậy, vừa cười vừa nói: – Già Triệu, nhà vua còn thưởng cho bác vật nào nữa không? Một lần cũng là lạy, hai lần cũng là lạy, ba bốn lần cũng lạy!
Bố tớ cười: – Quan lớn đừng giận, đây là phép tắc của triều đình.
Tiền đại nhân nói: – Nếu không còn gì nữa, mời Già đi cùng hạ quan. Viên đại nhân cùng Tổng đốc Caclôt đang kính cẩn đợi Già Triệu ở công đường huyện.
Bố tớ nói: – Cảm phiền đại nhân cho người khiêng cái ghế này đi. Tôi muốn để Viên đại nhân phân biệt thật giả.
Tiền đại nhân lưỡng lự giây lát rồi khoát tay, nói: – Được! Bay đâu?
Hai tên công sai hóa thân từ sói khênh chiếc ghế tựa của bố. Tiền đại nhân và bố sánh vai bước ra cổng. Trong sân, vợ tớ nôn ọe, vừa nôn vừa gào khóc: “Cha đẻ ơi, cha hãy cố mà sống, con gái cha đã có mang thằng cháu ngoại của cha!” Tớ trông thấy sắc mặt Tiền đại nhân hết tái lại đỏ rất không tự nhiên. Nét mặt bố tớ càng vênh váo. Đến trước kiệu, Tiền đại nhân và bố tớ khách khí nhường nhau lên trước, in hệt hai ông quan cùng cấp, hai ông bạn thân tình. Rốt cuộc chẳng ai lên kiệu, hai tên công sai bỏ ghế vào trong kiệu, nhét không vào, đành gác trên đòn khiêng. Bố tớ để chuỗi hạt trong kiệu rồi trườn xuống đất. Rèm buông xuống, che khuất những vật thiêng liêng không ai được xâm phạm. Bố tớ hai tay đều rỗi, dương dương đắc ý nhìn Tiền đại nhân. Quan lớn Tiền cười lên một tiếng như điên dại, nhanh như chớp đánh một bạt tai trúng giữa miệng bố tớ, bốp một tiếng, át hẳn tiếng kêu của con ễnh ương. Bố tớ không kịp đề phòng xoay đi nửa vòng, vừa đứng vững, Tiền đại nhân lại đánh một bạt tai nữa. Cú này mạnh hơn nhiều, bố tớ ngã lăn ra, mắt trợn trừng nhổ ra một bụm máu lẫn cái răng gãy, Tiền đại nhân nói: “Đi!”.
Bọn phu khiêng kiệu chạy như bay. Hai tên công sai lôi bố dậy, mỗi tên cầm một tay lôi như lôi chó chết. Tiền đại nhân ngẩng cao đầu ưỡn ngực đi trước, tư thế hùng dũng, chẳng khác gà trống vừa nhảy từ trên lưng gà mái xuống. Do không nhìn đường, ông ta có vấp phải một hòn gạch suýt ngã lăn quay, may mà lão Điêu đỡ kịp. Nhưng trong lúc lấn bấn ấy, Tiền đại nhân đánh rơi mũ, vội nhặt đội lên đầu, đội lệch, lại phải sửa cho ngay ngắn. Tiền đại nhân đi sau kiệu, thơ lại Điêu theo sau Tiền đại nhân, hai tên công sai lôi bố tớ, bố tớ kéo lê hai chân lết theo thơ lại Điêu, đám trẻ con bạo gan bám theo chân bố tớ, một hàng mười mấy người rồng rồng rắn rắn đi về huyện.
Tớ ứa nước mắt, tiếc mình không xông tới liều mạng với lão Tiền. Chả trách bố chửi tớ lúc thường thì hiếu thuận, gặp lúc nguy nan thì là đồ giẻ rách. Lẽ ra tớ phải dùng gậy đánh gãy chân lão, phải lấy dao đâm thủng bụng lão… Tớ nhặt thanh đại đao chạy ra đường định đuổi theo Tiền Đinh, nhưng sự tò mò đã giữ tớ lại. Tớ cùng với lũ nhặng tìm thấy cái thứ mà bố tớ nhổ ra. Đúng là răng, hai cái đều là răng hàm. Tớ dùng mũi dao gạt cái răng chơi một lúc, trong lòng rất buồn, hai giọt nước mắt ứa ra. Sau đó tớ đứng dậy nhìn theo bóng dáng của họ, nhổ một bãi nước bọt lớn tiếng chửi:
– Đ. mẹ mày… – hạ giọng – Tiền Đinh!
15.
Cao Mật huyện, rượu say Tây Hoa Sảnh
Nhớ nàng Mi Nương đẹp như tranh.
(Thể xác say, con tim vẫn tỉnh)
Đôi mắt nàng như nước mùa thu
Răng trắng môi hồng lồng ánh mắt
Lịm người Miêu Xoang một khúc
Yêu mệt, hoàng tửu, thịt cầy!
Xưa có câu:
Đại tướng không thoát tay người đẹp.
Anh hùng quì dưới mảnh quần hồng!
Ta và nàng như cá gặp nước
Như mây gặp rồng.
Vụng trộm mà yêu tại công đường
(Điếm nhục tổ tông!)
Tiếc rằng mộng đẹp không bền vững
Đông Bắc nổi cồn chuyện đao binh.
Cấm đầu sinh sự lão Tôn Bính
Một kép đào hoa, râu đẹp tuyệt!
Nhớ khi ta mới về Cao Mật,
Lão buông tuồng mở miệng nói ngông
Một trát màu hồng quăng xuống đất
Bắt Bính về, tay trói cổ gông!
Đọ râu một trận, ta thắng đẹp.
Khi đã gậy tày nện nán mông.
Không ngờ hôm ấy ta gặp lại
Người ta tơ tưởng: Tôn Mi Nương.
Mi Nương là con gái Tôn Bính
Vậy ta với Bính là tình thân…
… Giặc Đức tâm địa ác
Bắt Bính chịu cực hình
Đao phủ hành hình là Triệu Giáp
Bố chồng Tôn Mi Nương…
Miêu Xoang. “Đàn hương hình – Túy điệu”
Phu nhân, mời phu nhân ngồi, những việc nặng nhọc như hâm rượu, xào nấu thức ăn, phu nhân mó tay làm gì cho mệt! Điều này ta đã nói hàng ngàn lần rồi, phu nhân vẫn coi như gió thoảng ngoài tai. Ngồi xuống đi, phu nhân! Vợ chồng ta hôm nay uống một trận cho đã, say khướt mới thôi. Đừng sợ say,đừng sợ rượu vào lời ra, bóc trần sự thật! Chẳng cứ nơi thâm nghiêm cách biệt này, mà ngay ở chỗ hàng quán đông đúc, ta cứ nói những gì ta thích, sướng miệng thì thôi. Phu nhân, bà là hậu duệ của trọng thần nhà Đại Thanh, sinh ra trong một gia đình thế gia vọng tộc. Ông ngoại Tăng Quốc Phiên của bà tận tâm tận lực, chèo chống gian nan, cúc cung tận tụy, vì nước tận trung, thật xứng là cột trường nước nhà. Không có họ Tăng, thì triều Đại Thanh đâu có ngày nay! Nào, phu nhân hãy cạn chén rượu này. Bà chớ nghĩ ta đã say, ta chưa say, ta rất muốn say nhưng chỉ say được phần thể xác, không say được phần linh hồn. Phu nhân, chẳng giấu gì phu nhân, mà giấu phu nhân cũng chẳng được, khí số nhà Đại Thanh đã hết. Thái Hậu chuyên quyền, nhà vua bù nhìn, gà trống đẻ trứng, gà mái cầm canh, âm dương điên đảo, trắng đen lộn phèo, tiểu nhân đắc chí, ma quỉ hoành hành. Một triều đình như vậy mà không sụp đổ mới lạ! Phu nhân, hãy để ta nói một lần cho sướng, không thì ta uất mà chết! Ôi, nhà Đại Thanh, một ngôi nhà vĩ đại rung rinh chực đổ, phải đổ thì đổ đi, cần quên đi thì quên đi! Sống dở chết dở, chẳng âm chẳng dương thế này làm gì! Phu nhân, xin bà đừng bịt miệng ta, đừng giằng lấy chén rượu của ta, bà cho ta uống thỏa thuê, nói thoải mái. Ôi, Hoàng Thái Hậu chí tôn, Hoàng thượng chí quí, các Ngài quên mất địa vị cao quí của mình để tiếp xúc tên đao phủ! Đao phủ là ai? Là đồ cặn bã, trong chín loại người không xếp được vào loại nào. Làm quan như bọn ta, thức khuya dậy sớm, cần mẫn không lơi, vậy mà muốn được nhìn thấy mặt rồng, có họa là trời sập! Vậy mà tên đao phủ chó má lại được các Ngài trọng vọng đến thế. Thái Hậu ban chuỗi hạt, Hoàng thượng tặng long ỷ, chỉ thiếu nước thăng quan tấn tước, phong thê ấm tử mà thôi. Phu nhân, ông ngoại phu nhân lo toan doanh trại, chỉ huy ba quân, nam chinh bắc chiến, hãn mã công lao, vậy mà Hoàng thượng chưa bao giờ tặng long ỷ, đúng không? Ông trẻ đằng ngoại Tăng Quốc Thuyên xông pha tên đạn, xung phong hãm trận, thập tử nhất sinh, vậy mà Thái Hậu chưa bao giờ tặng ông trẻ chuỗi hạt, đúng không? Vậy mà lại tặng long ỷ, tràng hạt cho một tên đao phủ chó má. Tên súc sinh dựa vào ân thưởng của Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng, vênh vênh váo váo, bắt ta ba quỳ lạy chín khấu đầu, dùng đại lễ chào lạy tràng hạt và ghế, tức là chào hắn. Ta tuy là chức quan nhỏ, nhưng cũng đường đường hai bằng Tiến sĩ, ngũ phẩm chính ngạch, bị hạ nhục thế này, ta đau lắm! Bà bảo ta, “Nhỏ không nhịn sẽ hỏng việc lớn”, thời cuộc đã đến nỗi này, còn việc lớn gì mà bàn! Ngoài phố đang đồn đại ầm ầm, rằng liên quân tám nước đã đánh vào Bắc Kinh, Hoàng Thái Hậu và Hoàng thượng chạy ra Tây Đô chưa biết khi nào? vương triều Đại Thanh mất còn chỉ là một sớm một chiều! Vậy giờ phút này ta nhịn làm gì?! Ta không nhịn được nữa! Ta phải rửa cái nhục này! Phu nhân, tên súc sinh vừa để cái ghế và chuỗi tràng hạt vào trong kiệu, ta liền nhằm cái mặt chuột ấy cho hai bạt tai! Đã quá! Cái nào cũng ròn rã! Thắng chó cúi xuống nhổ ra hai chiếc răng cùng với máu. Đến bây giờ tay ta vẫn còn ê ẩm. Đã quá, phu nhân, hãy rót rượu cho ta!
Tên súc sinh bị ta cho bạt tai hết ngông nghênh, cụp đuôi như chó bị đòn. Nhưng ta biết hắn không phục. Đúng là không phục, cặp mắt gần như không có lòng trắng ẩn sâu trong hốc mắt, lóe lên những tia lửa xanh như lửa của ma quỉ. Nhưng tên súc sinh chẳng phải tay vừa, lúc ở bên ngoài y môn, ta hỏi hắn: “Già Triệu cảm thấy thế nào?” Phu nhân thử đoán xem hắn nói gì? Tên súc sinh cười hì hì: “Quan lớn đánh đau đấy, sớm muộn tôi cũng sẽ báo đáp ngài!” Ta nói, làm gì có chuyện “sớm muộn”, ta nuốt vàng, treo cổ, uống thuốc độc, tự vẫn, thì cũng không rơi vào tay ông! Hắn nói, chỉ sợ khi ấy đại nhân không tự mình định đoạt số phận mình! Hắn còn nói, thưa đại nhân, những chuyện như vậy rất nhiều.
Đúng, phu nhân nói đúng, đánh hắn bẩn tay. Ta đường đường là tri huyện, mệnh quan của triều đình, tranh hơn tranh kém với bọn tiểu nhân làm gì! Hắn là cái gì? Là đồ con lợn ư! Lợn còn chững chạc hơn hắn! Là đồ chó ư? Chó còn cao quí hơn hắn! Nhưng ta còn cách nào khác? Viên đại nhân yêu cầu ta đích thân đi mời hắn, quan to hơn một cấp không cưỡng được, ta sai người đi mời hắn nhưng hắn không chịu, ta đành xuất tướng. Có thể thấy, trong con mắt Viên đại nhân, tri huyện Cao Mật giá trị không bằng tên đao phủ.
Đến bên ngoài sảnh đường, ta cầm tay tên súc sinh – bàn tay hắn nóng như lửa, mềm như bún, quả nhiên bàn tay rất khác người! Ta định kéo hắn vào đại sảnh, ra vẻ thân tình khiến hắn không có dịp tố khổ. Nhưng hắn chỉ giằng một cái là tuột được tay ra, nhìn ta vẻ bí hiểm, không hiểu hắn định giở trò gì. Hắn chui vào trong kiệu, cầm chuỗi hạt đeo lên cổ, lật ngược cái ghế đàn hương, đội lên đầu. Thằng chó gió thổi ngã ấy không ngờ đội nổi cái ghế nặng trịch, và thế là hắn đầu đội bùa hộ mệnh, chệnh choạng đi vào sảnh đường. Ta lúng túng đi sau hắn. Tại sảnh đường, ta trông thấy Viên đại nhân mặt ngỡ ngàng, đang ngồi sánh vai với Tổng đốc Giao – Aùo Caclôt. Caclôt có khuôn mặt kinh dị, mắt hấp háy liên tục.
Tên súc sinh đội ghế đi vào giữa sảnh đường, giọng sang sảng: “Tiểu nhân Triệu Giáp, nguyên đao phủ Bộ Hình đội ơn Hoàng Thái Hậu cho phép cáo lão về quê, xin khấu kiến đại nhân”.
Viên đại nhân hoang mang, vội rời chỗ ngồi, lặc lè cái bụng, chạy gằn đến trước mặt tên súc sinh, giơ tay đỡ cái ghế trên đầu hắn. Cái ghế quá nặng, Viên đại nhân không bê nổi. Thấy vậy, ta vội chạy đến cùng Viên đại nhân đỡ cái ghế xuống, thận trọng lật sấp nó lại, đặt chính giữa sảnh đường. Viên đại nhân xốc áo phủi tay, bỏ mũ quỳ lạy: “Thần Sơn Đông Tuần phú Viên Thế Khải, kính chúc Hoàng thượng Hoàng Thái Hậu sống lâu muôn tuổi!” Như sét đánh ngang tai, ta đứng như trời trồng! Đợi Viên đại nhân hành lễ xong, ta bỗng hiểu ra, mình đã phạm tội tày đình. Thế là ta quì sụp, hướng về tên súc sinh hành đại lễ: lạy ba lạy, khấu đầu chín cái, trán nổi u vì đập phải gạch vỡ. Khi ta cúi lạy cái ghế, lão Caclôt ghé miệng nói nhỏ với tay phiên dịch ngồi bên cạnh, một nét cười khinh miệt trên khuôn mặt dài ngoẵng như mặt dê. Oâi, triều Đại Thanh, bản lĩnh của Người là vùi dập các quan của mình, còn với người Tây thì ra sức nịnh bợ. Lão khốn kiếp Caclôt nhiều phen va chạm với ta, chắc chắn không nói cho ta trước mặt Viên đại nhân, thôi thì mặc kệ, nhưng nói gì thì nói, Tôn Bính là do ta bắt hộ các ông.
Tên súc sinh quì dưới đất vẫn không chịu đứng dậy, Viên đại nhân kéo, hắn cũng chưa chịu đứng lên. Ta hiểu, chuyện dở sắp xảy ra, tên súc sinh sẽ trả đũa về hai cái tát tai. Quả nhiên, hắn gỡ chuỗi hạt ở cổ nâng bằng hai tay, nói:
– Xin đại nhân phán xử cho tiểu nhân!
Viên đại nhân e hèm một tiếng, nhìn ta một thoáng, nói:
– Mời ông cứ nói!
Tên súc sinh nói:
– Tiền đại nhân nói rằng tiểu nhân dựng chuyện nói láo.
Viên đại nhân hỏi:
– Tri huyện Tiền nói ông dựng chuyện gì, nói láo thế nào?
– Ông ấy nói long ỷ và tràng hạt là những vật tầm thường trong dân, ông nói tiểu dân là đồ bịp bợm, khinh người!
Viên đại nhân trừng mắt nhìn ta, nói:
– Đồ thiển cận!
Ta phân trần:
– Bẩm đại nhân, ti chức cho rằng, lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu, Hoàng thượng Hoàng Thái Hậu là bậc chí tôn, làm sao có thể tiếp kiến một tên đao phủ, và lại còn tặng long ỷ và tràng hạt là những vật quý, vì vậy ti chức hơi nghi.
Viên đại nhân nói:
– Nhà ngươi kiến thức nông cạn, học mà không hành. Đương kim Hoàng thượng Hoàng Thái Hậu hòa nhập trào lưu, cố công trị nước, yêu dân như con, chăm lo cho dưới, như ánh mặt trời, sáng soi muôn vật, thấm nhuần mưa móc, cây cỏ, muôn loài. Nhà ngươi bụng dạ hẹp hòi, quen thói thủ cựu, không hiểu là phải!
Tên súc sinh lại nói:
– Quan lớn Tiền còn đánh gãy hai chiếc răng của tiểu dân.
Viên đại nhân đập bàn, giận dữ quát lớn:
– Già Triệu là nguyên lão ba triều ở Ngục áp Tư Bộ Hình, nhiều năm thi hành án cho đất nước, nghiep vụ tinh thông, cống hiến đặc biệt, ngay cả Hoàng thượng Hoàng Thái Hậu cũng có tặng thưởng. Một viên Huyện lệnh nhỏ bé như nhà ngươi mà dám đánh gãy hai chiếc răng của “Già”, trong lòng ngươi còn nghĩ đến Hoàng thượng Hoàng Thái Hậu không?
Ta bùn rủn chân tay như bị điện giật, mồ hôi ướt đầm, ta quì mọp dưới đất, dập đầu xin xỏ:
– Ti chức ếch ngồi đáy giếng, tâm địa hẹp hòi, đắc tội với Già, mạo phạm oai trời, tội đáng muôn chết, mong đại nhân tha thứ!
Viên đại nhân trầm ngâm hồi lâu, nói:
– Nhà ngươi không coi triều đình là gì, đánh đập con dân, tội đáng phạt nặng, nhưng vì ngươi đã giúp Tổng đốc Caclôt bắt sống trùm giặc Tôn Bính, công lao không nhỏ, nên cho phép lấy công chuộc tội!
Ta dập đầu lia lịa nói:
– Tạ ơn đại nhân!
Viên đại nhân nói:
– Tục ngữ có câu: “Đánh người không đánh vào mặt, tố người không tố chỗ dở”, tự nhiên nhi nhiên đánh gãy hai chiếc răng của người ta, cứ thế mà tha ngươi, chỉ sợ Già Triệu không phục. Thế này nhé, ngươi lạy Già Triệu hai lạy, rồi đền cho Già hai mươi lạng bạc, bồi thường hai chiếc răng gãy!
Phu nhân, bây giờ thì bà đã biết, hôm nay ta bị hạ nhục ê chề như thế nào. Đứng dưới mái hiên thấp, ai chẳng phải cúi đầu? Ta nén giận, tim gan như muốn vỡ tung, mắt ứa máu, dập đầu lạy tên súc sinh hai cái…
Tên súc sinh cười tít mắt tiếp nhận đại lễ của ta, rồi trâng tráo mà nói rằng:
– Quan lớn Tiền, tiểu nhân nghèo rớt mồng tơi, đang đợi gạo cho vào nồi, mong đại nhân giao hai mươi lạng, càng sớm càng tốt.
Câu nói của hắn khiến Viên đại nhân cười khanh khách. Viên Thế Khải, Viên đại nhân, ông là tên khốn nạn, ông tiếp tay cho tên đao phủ hạ nhục ta trước mắt người nước ngoài. Ta đường đường là Tiến sĩ bảng vàng, là mệnh quan của triều đình, ông hạ nhục người có học, chẳng lẽ ông không sợ tổn thương quan viên trong thiên hạ? Thoạt nhìn, ông tiếp tay hạ nhục chỉ một viên quan nho nhỏ vùng Cao Mật, nhưng trên thực tế, ông hạ nhục sự tôn nghiêm của Đại Thanh! Cái tên phiên dịch mặt vàng chắc là đã dịch cho Caclôt nghe tất cả, khiến thằng cha giết người không chớp mắt cười dữ hơn Viên đại nhân. Phu nhân, chồng của phu nhân hôm nay bị người ta giỡn như giỡn khỉ. Nhục ơi là nhục! Phu nhân, hãy để ta uống, uống thật say mới thôi. Viên đại nhân, lẽ nào ông chẳng biết “kẻ sĩ thà chết chứ không chịu nhục”. Phu nhân yên tâm, ta sẽ không tự sát. Tính mạng ta sớm muộn sẽ tuẫn tiết cùng triều đình Đại Thanh, nhưng không phải lúc này.
Tên súc sinh được Viên đại nhân đồng tình, vênh váo ngồi xuống ghế đàn hương. Ta đứng sang một bên như một tên sai dịch. Lòng ta sôi sục, máu dồn lên đỉnh đầu, cảm thấy trong tai ong ong, hai cánh tay trương lên, chỉ tiếc ta không thể nhảy xổ tới bóp cổ hắn vì ta biết mình nhu nhược. Ta so vai rụt cổ, cố rặn ra một nụ cười. Ta là một tên hề vô liêm sỉ! Phu nhân, sự nhẫn nại của chồng phu nhân nên xếp số một trong thiên hạ!
Viên đại nhân hỏi tên súc sinh:
– Già Triệu, chia tay ở Thiên Tân thấm thoắt đã một năm rồi nhỉ?
– Tám tháng, thưa đại nhân – Tên súc sinh cải chính.
Viên đại nhân nói:
– Có biết vì sao triệu ông tới đây không?
Tên súc sinh đáp:
– Không biết, thưa đại nhân.
Viên đại nhân hỏi:
– Ông biết vì sao Hoàng Thái Hậu tiếp kiến ông không?
Súc sinh đáp:
– Tiểu nhân nghe Đại Tổng Quản Lý nói, Viên đại nhân đã nói tốt về tiểu nhân trước mặt Hoàng Thái Hậu.
– Ta có duyên với nhau đấy! – Viên đại nhân nói.
– Tiểu nhân đến chết không quên ơn đức của đại nhân – Tên súc sinh đứng dậy lạy một lạy, rồi ngồi lại trên ghế của hắn.
Viên đại nhân nói:
– Hôm nay mời ông tới đây, giúp bản quan – cũng là giúp triều đình – hành nghề một lần nữa.
Súc sinh bảo:
– Không rõ đại nhân cần tiểu nhân làm chuyện gì?
Viên đại nhân cười:
– Mẹ kiếp, đao phủ như ông thì còn biết nghề nào khác?
Súc sinh nói:
– Chẳng giấu gì đại nhân, sau lần thi hành án ở Thiên Tân, cổ tay sinh bệnh không cầm nổi đao nữa.
Viên đại nhân cười nhạt:
– Bê nổi long ỷ, làm sao không cầm nổi đao? Phải chăng sau khi được Hoàng thượng triệu kiến, ông liền biến thành Phật?
Tên súc sinh vội trườn xuống đất quỳ mọp, nói:
– Bẩm đại nhân, không dám, kẻ hèn này như đồ chó lợn, không bao giờ thành Phật!
Viên đại nhân cười nhạt:
– Ông mà thành Phật thì rùa rùa ba ba thành Phật hết!
Súc sinh nói:
– Đúng vậy, thưa đại nhân!
Viên đại nhân hỏi:
– Biết chuyện Tôn Bính làm phản không?
Súc sinh đáp:
– Tiểu nhân sau khi về quê, đóng cửa ở nhà, chuyện thiên hạ không biết gì cả.
Viên đại nhân hỏi:
– Nghe nói Tôn Bính là thông gia với ông?
Súc sinh đáp:
– Tiểu nhân làm việc ở kinh thành, mấy chục năm không về quê. Chuyện gả bán này là do người vợ đã quá cố của tiểu nhân chủ trì.
Viên đại nhân nói:
– Tôn Bính chiêu mộ Hòa Quyền, lôi kéo dân chúng tạo phản, khiến liên quân tám nước đánh vào Bắc Kinh, gây bao nỗi phiền phức cho Hoàng thượng, Hoàng Thái Hậu. Căn cứ luật pháp triều Thanh, tội của hắn phải giết cả chín họ!
– Tiểu nhân cứ án lệnh mà hành sự, không rành luật pháp lắm.
Viên đại nhân nói:
– Theo luật, ông cũng nằm trong số chín họ ấy.
Súc sinh đáp:
– Tiểu nhân về quê mới nửa năm, Tôn Bính mặt ngang mũi dọc thế nào, tiểu nhân cũng chưa thấy!
Viên đại nhân nói:
– Nhân tâm như sắt thép, phép quan như lò nung. Từ năm ngoái đến năm, bọn quyền phỉ quấy nhiễu, các giáo phái thù địch diệt người Tây, dẫn đến tranh chấp quốc tế, gây ra tai họa tầy trời. Nay Bắc Kinh đã bị các cường quốc bao vây, dân tình các tỉnh phía Đông cực kỳ hung hãn, nhất là Cao Mật. Lúc đất nước lâm nguy, giặc cướp hoành hành mà hình phạt không nặng thì bọn cứng đầu không sợ. Bản quan hôm nay mời ông tới đây, một là nhắc lại tình xưa, hai là yêu cầu ông dùng loại hình nào thật kinh khủng để xử tên Bính, nhằm răn đe những kẻ khác.
Nghe đến đây, ta thấy tên súc sinh mắt sáng lên. Mắt hắn lấp lánh hào quang, soi rõ khuôn mặt gầy như sống đao của hắn. Mặt hắn chẳng khác thỏi sắt mới ra lò. Hai bàn tay bé xíu quái đản của hắn như hai con thú nhỏ, run rẩy lật bật trên đầu gối hắn. ta biết, tên súc sinh không phải run rẩy vì sợ, trên đời này không đao phủ nào từng chém rụng hàng ngàn thủ cấp mà lại run lên vì sợ hãi? Ta biết, tên súc sinh run lên vì hưng phấn, chẳng khác chó sói nhìn thấy con mồi. Mắt hắn tóe lửa đầy vẻ hung hãn, nhưng miệng lại từ tốn khiêm nhường. Thằng cha này tuy là một tên đao phủ thô bỉ, nhưng hắn thuộc lòng toàn bộ trí tuệ của quan trường Đại Thanh, hắn thả để bắt, hắn làm ra vẻ không có gì để che giấu sự thực, hắn giả vờ lẩm cẩm, cúi đầu nói:
– Bẩm đại nhân, kẻ hèn này kiến thức thô thiển, chỉ biết làm theo lệnh trên!
Viên đại nhân cười ha hả, dứt trận cười, đại nhân dịu dàng hỏi hắn:
– Già Triệu, có lẽ nể tình thông gia, ông không muốn đưa ra một tuyệt kỹ?
16
Tên súc sinh quả là một quái thai, hắn đánh hơi thấy ác ý của Viên đại nhân sau câu đùa, nhận rõ bản mặt của đại nhân sau tiếng cười. Hắn tụt vội xuống đất, phủ phục nói:
– Tiểu nhân không dám! Tiểu nhân đã cáo lão về quê, thực tình không dám cướp bát cơm của các đồng nghiệp ở huyện!
– Thì ra ông ngại chuyện ấy – Viên đại nhân nói – Đa tài đa lụy mà!
Súc sinh nói:
– Đại nhân đã đánh giá cao tiểu nhân, tiểu nhân đành khoe vụng vậy.
Viên đại nhân nói:
– Ông nói đi, các loại hình phạt của từng triều đại, của phủ quan, của dân gian đã từng sử dụng, nói chầm chậm để dịch cho ông Tây nghe!
Tên súc sinh nói:
– Tiểu nhân nghe sư phụ của tiểu nhân nói, trong các loại hình phạt mà bản triều đã sử dụng, không loại nào kinh khủng bằng lăng trì!
Viên đại nhân nói:
– Loại này sở trường của ông, xử tên Tiền Hùng Phi tại Thiên Tân, ông dùng hình phạt lăng trì; lăng trì ghê gớm rồi, nhưng chết vẫn nhanh!
Nói tới đây, Viên đại nhân nhìn ta gật gật đầu. Phu nhân, Viên đại nhân tai mắt khắp nơi, chắc chắn biết Tiền Hùng Phi là em ruột ta. Quả nhiên, ngài cười rất hóm nhìn ta – bộ mặt thì tươi cười, nhưng ánh mắt thì sắc như răng rắn rết – làm như chợt nhớ ra, hỏi:
– Ông Huyện Cao Mật, nghe nói mưu sát bản quan Tiền Hùng Phi là anh em họ của ông?
Phu nhân, ta nghe như sét đánh ngang tai, ướt đầm mồ hôi lạnh, lóng ngóng quì xuống, cái đầu của chồng phu nhân hôm nay thật tội nghiệp! Ta nổi cáu nghĩ, dân gian có câu: “Sống chết cũng ngỏng c. lên trời”, cứ sự thật mà nói để khỏi thấp thỏm. Ta nói: “Khải bẩm đại nhân, Tiền Hùng Phi và ti chức là anh em cùng mẹ khác cha, em thứ ba, vì ông chú họ không có con trai, xin nuôi hắn để có người nối dõi”. Viên Thế Khải gật đầu: “Quả nhiên con rồng cháu giống, mỗi người một vẻ. Thư ông gửi hắn, ta đều xem, đúng là tiến sĩ kép, con cháu danh thần, thư nhà mà nghị luận đâu ra đấy, câu chữ chặt chẽ! Thư hắn gửi cho ông – ông chưa được xem – là một thư cắt đứt quan hệ, trong thư hắn chưởi ông tệ hại. Tri huyện Cao Mật, ông là con người thực thà, thông minh, bản quan xưa nay vẫn cho rằng, thực thà là thông minh. Tri huyện Cao Mật, cái mũ trên đầu ông tuy không có cánh, nhưng suýt nữa thì bay! Đứng dậy đi!”. Phu nhân ơi, ngày hôm nay là một ngày lạ lùng, bao nhiêu là nguy hiểm, phu nhân không có lý do gì ngăn ta uống thật say!
Phu nhân, chúng ta chỉ biết chú Ba bị tội lăng trì tại Thiên Tân, nhưng không nghĩ rằng người thi hành án lại là tên súc sinh Triệu Giáp, quả nhiên, “Không phải oan gia không gặp nhau”, chà, Viên Thế Khải quả là thâm, miệng nam mô bụng bồ dao găm, ta rơi vào tay lão, e rằng lành ít dữ nhiều! Uống đi, phu nhân, phúc hay họa đây, họa tránh cũng không thoát, đời người một trăm năm; đời cây cỏ một mùa thu, ta xem như đã xong rồi!
Ánh mắt tên súc sinh rất gian, cứ lia ngang trên cổ ta. hắn bắt đầu nghiên cứu các đốt xương cổ, cân nhắc nên hạ lưỡi đao vào chỗ nào!
Viên đại nhân không hỏi gì ta nữa, quay sang hỏi Triệu Giáp:
– Ngoài lăng trì, còn có hình phạt nào hay hơn?
Tên súc sinh nói:
– Bẩm đại nhân, ngoại trừ lăng trì, còn có chém ngang lưng là thảm khốc nhất!
– Ông thi hành án này lần nào chưa? – Viên đại nhân hỏi.
Tên súc sinh nói:
– Coi như đã một lần.
Viên đại nhân nói:
– Ông nói chầm chậm để ông Caclôt nghe.
Tên súc sinh nói:
– Bẩm đại nhân, năm Hàm Phong thứ bảy, tiểu nhân mười bảy tuổi, làm “Cháu Ngoại” ở Ban Đao phủ thuộc Ngục áp Tư của Bộ Hình, là học trò, là trợ tá cho sư phụ khi ấy là Già Dư. Khi Già hành nghề, tiểu nhân hầu cận ở bên, cố công nắm bắt từng chiêu thức của thầy. Kẻ bị tội chém ngang lưng hôm ấy là tên coi kho ở kho bạc Hoàng gia. Tay này cao to, miệng rộng có thể đút lọt nắm đấm. Bẩm đại nhân, những tên coi kho đều là chuyên gia về trộm cắp. Khi vào kho, không một mảnh vải trên người, khi trở ra, tất nhiên vẫn không mảnh vải trên người. Mặc dù vậy, vẫn không ngăn được bọn chúng ăn trộm bạc. Bẩm đại nhân, ngài thử đoán chúng giấu ở đâu? Chúng giấu trong “hang”! Phiên dịch mặt vàng hỏi: “Hang ở đâu?” Viên đại nhân trừng mắt nhìn người phiên dịch, giải thích: Hậu môn, ông dịch ngắn gọn thôi. Vâng, tiểu nhân xin dịch ngắn gọn. Triều Thanh, ngân khố năm nào cũng bị hụt, chết oan không biết bao nhiêu quan giữ kho, nhưng không ai nghĩ rằng đó là bọn coi kho giở trò ma mãnh! Ngành có qui tắc của ngành, nhà có cung cách của nhà. Coi kho tuy đồng lương rẻ mạt, nhưng tên nào cũng nhà cao cửa rộng, thê thiếp hàng đàn. Chúng giàu lên nhờ vào “hang”. Phải nói rằng, “hang” là nơi da mỏng, dễ tổn thương, bình thường hạt cát không lọt, vậy mà những tên coi kho nhét vào đấy cả đĩnh bạc năm mươi cân! Thì ra, hàng ngày những tên này dùng cái chùy bằng gỗ đàn hương nống hậu môn. Chùy có hình dáng như cái c. của con lừa, tẩm nhựa thơm lâu năm có màu cánh gián, trơn bóng, chia ba cỡ: nhỏ, vừa, to. Lúc đầu nhỏ, sau vừa, cuối cùng to, ngày nào cũng nống, đêm nào cũng nống, nống to không thể tưởng tượng, chuẩn bị đánh cắp bạc trong kho. Hôm ấy, tên coi kho nhét vào hậu môn ba đĩnh bạc. Lúc rời kho, hắn thở hổn hển, mông cành ra như kẹp cả một bọng phân. Viên quan coi kho sinh nghi, nhằm mông đít hắn, đạp một cái. Cú đạp không mạnh, nhưng tên giữ kho khuỵu ngay xuống, một đĩnh bạc chui ra khỏi hậu môn! Viên quan trố mắt, đạp tiếp mấy đạp, hai đĩnh nữa chui ra. Viên quan chửi: “Đồ khốn, cái đít nhà ngươi kẹp cứng ba năm bổng lộc của ông!” Từ đó, người ta mới biết cung cách làm ăn của bọn coi kho. Giờ đây khi rời kho, các lính đều bị khám hậu môn bằng thám trâm. Sự vụ tâu lên, vua Hàm Phong cả giận, giáng chỉ tử hình toàn bộ lính coi kho, sung công toàn bộ tài sản. Vụ này áp dụng một loại hình phạt do Già Dư thiết kế: Nung đỏ thanh sắt xiên vào hậu môn, phạm nhân chết bỏng. Riêng tên coi kho mồm rộng thì bị tội chém ngang lưng, án xử công khai, coi như phân trần với xã hội.
Hôm thi hành án, pháp trường Thái Thị Khẩu người đông như kiến, dân chúng xem chém đầu đã nhàm, nay chém ngang lưng cảm thấy mới mẻ. Hôm ấy, giám hình quan là Thị Lang Bộ Hình Hứa đại nhân, còn có Đại Lý Tự Chính Khanh Tang đại nhân, rất mực long trọng. Để thi hành bản án, Ban Đao phủ chỉ ngủ có nửa đêm, Già Dư đích thân mài lưỡi búa Tuyên Hóa to tướng, dì út mới bị ốm chết, dì Cả dì Hai chuẩn bị thừng chạc, đôn ghế… Tiểu nhân vẫn tưởng chém ngang lưng thì dùng đao, nhưng Già Dư bảo, từ thời sư tổ đã dùng búa. Nhưng sắp đến giờ khởi hành, để đề phòng bất trắc, Già bảo tiểu nhân đem theo thanh đại đao.
Giải tên coi kho lên bục thi hành án. Tên này uống hơi nhiều rượu đoạn hồn, say xỉn, mắt đỏ như mắt cá chày, miệng sùi bọt, y hệt một con trâu điên. Vai hắn hích nổi ngàn cân, khi hắn cựa, dì Cả và dì Hai không sao giữ nổi. Hắn quậy, người xem ồ lên thích thú; người xem càng khen, hắn càng quậy dữ! Chật vật mãi, mới trói được hắn vào cái đôn bằng gỗ. Dì Cả đè đầu, dì Hai đè chân. Hắn không hiền chút nào, hai tay vung loạn xạ, hai chân đạp như ngựa đá hậu, xương sống uốn như rắn, lưng gồng lên như sâu đo. Quan giám hình suốt ruột, không đợi bọn tiểu nhân trói buộc xong xuôi, ra lệng thi hành án. Già Dư vung lưỡi búa Tuyên Hóa cao quá đỉnh đầu, rồi chém mạnh xuống. Soạt, một luồng sáng trắng, kéo theo một làn gió. Lúc Già Dư giơ búa lên, công chúng im như thóc; khi lưỡi búa hạ xuống, một trận hoan hô nổi lên. tiểu nhân nghe một tiếng “phụt”, làn sóng đỏ bắn tung tóe, mặt mũi dì Cả và dì Hai đầy máu. Nhát chém không gọn, chỉ đứt có một nửa, vì khi lưỡi búa hạ xuống, tên phạm vặn mình một cái, kết quả chỉ đứt một bên bụng. Tiếng gào thảm thiết của hắn át cả tiếng reo hò. Ruột hắn tuồn ra ngoài bụng, phủ kín cái đôn gỗ. Già Dư định chém bồi nhát nữa, nhưng lưỡi búa bập sâu trong đôn, rút được ra thì cán dính đầy máu, trơn tuột, không sử dụng được nữa. Công chúng lại reo hò vì nghịch cảnh vừa xảy ra. Tên phạm tay nào chân ấy quẫy đạp lung tung, tiếng gào quái đản của hắn kinh thiên động địa. Trong tình hình đó, cái khó ló cái khôn, không đợi Già Dư sai bảo, tiểu nhân bước lên, vung đao, nghiến răng, nhắm mắt, chặt một nhát, tên phạm đứt làm hai đoạn. Già Dư xoay người lại, bẩm giám hình quan:
– Án đã thi hành, mời đại nhân nghiệm thu!
Các đại nhân ngồi yên như phỗng, mặt tái nhợt. Dì Cả và dì Hai buông tay đầy máu, đứng lên. nửa người dưới của tên phạm vẫn đang co giật nhưng không mạnh. Còn nửa người trên thì kinh khủng! Bẩm đại nhân, nếu chưa trông thấy thì có nói cũng chẳng tin, có trông thấy thì chưa hẳn đã tin ở mắt mình, nghĩ rằng đang mê ngủ. Tên phạm gần như là hóa thân của chuồn chuồn, mất nửa người dưới mà còn định cất cánh bay. Hắn chống hai tay xuống đất dựng thẳng người lên, nhảy lóc cóc trên bục. Máu của hắn ướt đẫm chân chúng tiểu nhân, ruột của hắn quấn quanh chân chúng tiểu nhân. Mặt hắn như dát vàng, nhẵn bóng. Miệng hắn rộng như chiếc tam bản, gào to mà không nghe rõ gào câu gì, chỉ thấy bọt máu phun phì phì. Kỳ quặc nhất là cái đuôi sam, cứ cong dần lên như cái đuôi con rết, dựng đứng sau gáy một lát, rồi mệt mỏi thả xuống, thẳng đuỗn. Công chúng nín thở, người bạo phổi thì còn mở mắt nhìn, người yếu bóng vía thì hai tay bưng mặt, lại còn có người lợm giọng, nôn khan. Các quan giám hình lên ngựa bỏ chạy, bốn thầy trò tiểu nhân đứng như trời trồng trên bục, tròn mắt nhìn tên coi kho giở phép thần thông. Hắn vật vã khoảng hút tàn một tẩu thuốc, mới miễn cưỡng ngã sấp, ngã rồi miệng còn nhai nhóp nhép. Bịt tai lại, cứ tưởng đó là tiếng trẻ con bú sữa!
Tên súc sinh kể rất sinh động về hình phạt chém ngang lưng, rồi hắn câm bặt, hai mép dính nước bọt, mắt đảo lia lịa, quan sát sắc mặt Viên đại nhân và Caclôt. Trước mắt ta hiện lên hình ảnh đáng sợ nửa người lắc lư, bên tai còn nghe tiếng rú thất thanh của tên coi kho. Viên đại nhân thích thí lắng nghe, mắt lim dim, không nói gì. Caclôt nghiêng đầu nghe lời dịch, lúc nhìn Viên, lúc nhìn Triệu. Nhìn điệu bộ ấy, ta liên tưởng đến con chim ưng đậu trên mỏm đá nham thạch.
Cuối cùng, Viên đại nhân mở miệng:
– Tổng đốc các hạ, theo hạ quan thì nên dùng hình phạt chém ngang lưng.
Người phiên dịch khẽ dịch lời của Viên đại nhân, Caclôt nói câu gì đó bằng tiếng tây. Người phiên dịch nói:
– Ngài Tổng đốc muốn biết, sau khi chém, tội phạm còn sống được bao lâu?
Viên đại nhân hất cằm về phía tên súc sinh, ra hiệu cho hắn trả lời. Hắn nói:
– Sống thêm khoảng hút tàn tẩu thuốc, nhưng cũng không hẳn thế, có người chết ngay, y như một khúc gỗ sau khi chặt làm hai đoạn. Caclôt lại nói một hồi với người phiên dịch. Người phiên dịch nói lại:
– Ngài Tổng đốc nói, chém ngang lưng không tốt, phạm chết quá nhanh, không có tác dụng răn đe bọn cứng đầu. Ngài muốn có một hình phạt tân kỳ và tàn khốc, bắt phạm đau khổ cùng cực nhưng chưa chết ngay. Ngài nói, loại hình phạt nào mà sau khi gia hình, phạm còn sống được năm ngày, tốt nhất là sống đến ngày hai mươi tháng Tám, ngày làm lễ thông xe đoạn đường sắt Thanh Đảo – Cao Mật.
Viên đại nhân nói:
– Ông cố nghĩ xem, có loại nào được như vậy không?
Tên súc sinh lắc đầu:
– Treo phạm lên năm ngày, dù không hình phạt, phạm cũng chết!
Caclôt lại xì xồ với người phiên dịch. Người phiên dịch nói:
– Ngài Tổng đốc nói rằng, Trung Quốc cái gì cũng lạc hậu, nhưng hình phạt thì tiên tiến. Người Trung Quốc có biệt tài về việc này. Bắt người ta đau khổ đến tận cùng mới chết, đó là nghệ thuật của Trung Quốc, là sự tinh túy trong chính trị của Trung Quốc…
– Cút! – Ta nghe thấy Viên đại nhân nói nhỏ, nhưng ngay lập tức ngài cao giọng để át tiếng chửi lúc nãy. Ngài kiên nhẫn gợi ý:
– Ông chịu khó nghĩ đi.
Sau đó ngài nói Caclôt:
– Ngài Tổng đốc, nếu quý quốc có loại hình phạt như thế thì đừng ngại, cứ giới thiệu. Chuyện ấy dễ học hơn sản xuất xe lửa.
Người phiên dịch dịch lời Viên đại nhân cho Caclôt. Caclôt nhíu mày suy nghĩ rất lung. Tên súc sinh cúi đầu, chắc chắn hắn cũng đang tìm tòi.
Bỗng Caclôt tỏ ra phấn khởi, xì xồ với người phiên dịch. Người phiên dịch nói:
– Ngài Tổng đốc nói, Châu âu có loại hình phạt câu rút, đóng đinh người trên cọc, rất lâu mới chết.
Tên súc sinh mắt sáng lên, mặt mày tươi tỉnh:
– Bẩm đại nhân, kẻ hèn nghĩ ra rồi. Năm xưa tiểu nhân từng nghe sư phụ nói, sư phụ của sư phụ vào quãng năm Ung Chính đã dùng đàn hương hình để xử tội một người dám ỉa gần Hoàng thượng.
Viên đại nhân hỏi:
– Đàn hương hình là gì?
Tên súc sinh nói:
– Sư phụ của tiểu nhân nói cũng chưa rõ lắm, đại để là dùng một cái cọc bằng gỗ đàn hương đâm từ lỗ đít lên gáy, rồi trói người ấy vào gốc cây.
Viên đại nhân cười nhạt, nói:
– Đúng là những tư tưởng lớn thường hay gặp nhau! Người ấy sống được mấy hôm?
Tên súc sinh nói:
– Khoảng ba hôm, có lẽ bốn hôm.
Viên đại nhân bảo người phiên dịch dịch cho Caclôt nghe. Caclôt mặt mày tươi tỉnh, lắp bắp một câu tiếng Trung Quốc.
– Tốt, tốt, đàn hương hình tốt!
Viên đại nhân nói:
– Ngài Tổng đốc đã nói là tốt, vậy thì coi như đã quyết, áp dụng đàn hương hình cho Tôn Bính, nhưng phải để hắn sống năm ngày. Hôm nay là mười ba tháng Tám, mai chuẩn bị một ngày, ngày kia, ngày mười lăm bắt đầu thi hành án.
Tên súc sinh đột nhiên quỳ xuống, nói:
– Bẩm đại nhân, tiểu nhân tuổi đã cao, chân tay lóng ngóng, công việc quan trọng này phải có một trợ thủ.
Viên đại nhân nhìn ta bảo:
– Bảo tên đao phủ Khám Nam làm trợ thủ cho ông.
Tên súc sinh nói:
– Bẩm đại nhân, tiểu nhân không thích đồng nghiệp ở huyện nhúng tay vào.
Viên đại nhân cười:
– Ông sợ họ tranh công chứ gì?
Tên súc sinh nói:
– Xin đại nhân phê chuẩn cho con trai của tiểu nhân giúp tiểu nhân một tay.
Viên đại nhân hỏi:
– Con trai ông làm nghề gì?
Tên súc sinh nói:
– Giết lợn giết chó.
Viên đại nhân cười, nói:
– Cũng coi như có nghề! Được, đánh trận cần đông người, xung trận toàn cha con. Bản phủ đồng ý.
Tên súc sinh vẫn quỳ, chưa đứng dậy.
Viên đại nhân hỏi:
– Ông còn điều gì nữa không?
Tên súc sinh nói:
– Bẩm đại nhân, tiểu nhân đã nghĩ, muốn thực thi đàn hương hình phải dựng một đài cao hai trượng bằng gỗ, trên đài dựng một cây cột, trên cột đính một thanh ngang. Một bên đài phải lát một con đường bằng ván, để cho những người thi hành án lên xuống.
Viên đại nhân nói:
– Ông về vẽ ra giấy, để tri huyện Cao Mật chiểu theo đó mà làm.
Tên súc sinh nói:
– Cần hai thanh gỗ đàn hương loại tốt nhất, vót thành hai cái cọc nhọn hình thanh kiếm. Công việc này tiểu nhân tự làm.
Viên đại nhân nói:
– Để tri huyện Cao Mật giúp ông một tay.
Tên súc sinh nói:
– Cần hai trăm cân dầu thơm đã tinh luyện.
Viên đại nhân cười, nói:
– Ông định rán Tôn Bính để nhắm rượu hay sao đấy?
Tên súc sinh nói:
– Bẩm đại nhân, kiếm đàn hương sau khi vót xong, đun trong dầu thơm chí ít phải một ngày một đêm, như vậy mới bảo đảm là không dính ruột, không thấm máu.
– Tri huyện Cao Mật sẽ giúp ông tất cả những việc này – Viên đại nhân nói – Cần những gì, tốt nhất là ông nói hết ra.
Tên súc sinh nói:
– Còn cần mười sợi thừng bằng da trâu, một dùi đục bằng gỗ, một con gà trống trắng, hai mũ nỉ màu đỏ, ủng hai đôi, áo trắng hai chiếc, dây lưng bằng lụa hồng hai cái, dao bầu hai con, còn nữa, gạo tẻ một trăm cân, bột trắng một trăm cân, trứng gà một trăm quả, thịt lợn hai mươi cân, nhân sâm loại Một nửa cân, ấm sắc thuốc một chiếc, củi đun ba trăm cân, thùng gánh nước hai cái, ang đựng nước một cái, chảo to một cái, chảo nhỏ một cái.
Viên đại nhân hỏi:
– Ông cần nhân sâm làm gì?
Tên súc sinh đáp:
– Tiểu nhân xin nói đại nhân nghe, phạm nhân sau khi thụ hình, ruột gan không bị thương, nhưng máu thì vẫn chảy. Hàng ngày phải đổ nhân sâm thì mới sống được một số ngày. Nếu không, tiểu nhân cũng không dám đảm bảo sống được năm ngày.
Viên đại nhân hỏi:
– Đổ nhân sâm, ông có đảm bảo sống được năm ngày không?
– Tiểu nhân đảm bảo – Tên súc sinh cả quyết.
Viên đại nhân nói:
– Tri huyện Cao Mật, ông giúp ông ta liệt kê các thứ ra giấy, gấp rút sai người đi mua, không được chậm trễ.
Tên súc sinh vẫn quì.
Viên đại nhân nói:
– Ông đứng lên đi
Tên súc sinh vẫn quì, dập đầu lia lịa.
Viên đại nhân nói:
– Rồi, đừng dập cái đầu chó của ông nữa! Nghe đây, nếu ông thực thi viên mãn hình phạt đàn hương, bản phủ sẽ thưởng cho cha con ông một trăm lạng bạc. Vạn nhất xảy ra sai sót, ta sẽ lấy kiếm đàn hương xiên chả hai cha con rồi phơi khô trên cột!
Tên súc sinh dập đầu một cái rõ kêu, nói:
– Tạ ơn đại nhân!
Viên đại nhân nói:
– Tri huyện Cao Mật, ông cũng vậy đấy nhé!
Ta đáp:
– Ti chức xin cố sức, không dám trễ nải.
Viên đại nhân rời chỗ ngồi, sánh vai cùng Caclôt bước xuống công đường. Đi được mấy bước ông ta ngoảnh lại làm như chợt nhớ ra, hỏi:
– Tri huyện Cao Mật, nghe nói ông đưa công tử Lưu Bùi Thôn từ Tứ Xuyên về đây làm việc ở huyện?
– Vâng, thưa đại nhân – Ta nói toạc móng heo – Phú Thuận của Tứ Xuyên là quê hương của Lưu Bùi Thôn, bạn đồng tuế của ti chức. Thời gian ti chức làm huyện lệnh ở Phú Thuận, Lưu phu nhân cùng cả nhà đưa linh cữu về quê. Nghĩ tình đồng niên, ti chức có gửi lời ai điếu và mười lượng bạc. Ít lâu sau, Lưu phu nhân vì quá đau thương cỡi hạc về tây trúc, lúc lâm chung, gửi gắm Lưu Phác cho ti chức. Ti chức thấy cậu ta nhanh nhẹn cẩn thận, nên cho vào làm việc trong huyện.
– Ông Huyện Cao Mật, ông là con người thẳng thắn, một con người đàng hoàng, một con người không xu thời phụ thế, một con người có tình có nghĩa! – Viên đại nhân ý tứ sâu xa – Nhưng cũng là con người không thức thời!
Ta gục đầu trên mặt đất, nói:
– Ti chức cảm ơn đại nhân đã chỉ bảo.
– Triệu Giáp! – Viên đại nhân nói – Ông là kẻ thù giết cha của Lưu Phác đấy!
Tên súc sinh nhanh miệng đáp:
– Đó là tiểu nhân chấp hành ý chỉ của Thái Hậu!
Phu nhân, sao phu nhân không rót rượu cho ta? Đầy vào, đầy vào! Nào, phu nhân cũng nên uống một chén. Sắc mặt phu nhân nhợt nhạt quá, phu nhân khóc đấy à? Đừng khóc, ta đã suy tính rồi, quyết không để thằng súc sinh lấy được trăm lượng bạc, quyết không cho thằng Caclôt thực hiện được âm mưu! Ta cũng quyết không cho Viên Thế Khải như nguyện. Thằng chó họ Viên đã xẻ em ruột ta làm nghìn mảnh, thảm quá, thảm quá! Viên Thế Khải bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao! Hắn không dễ dàng tha cho ta! giết xong Tôn Bính, hắn sẽ giết ta. Phu nhân, đằng nào cũng chết, phải chết cho đàng hoàng! Thời buổi này, sống là kiếp chó, chết là kiếp người. Phu nhân, chúng ta là vợ chồng mười mấy năm, tuy chẳng có con cái gì, nhưng cũng đầu gối tay ấp, phu xướng phụ tùy. Sáng sớm mai, phu nhân nên về Hồ Nam, xe cộ đã chuẩn bị sẵn. Gia đình ta còn mười mẫu ruộng nước, năm gian nhà cỏ, cóp nhặt nhiều năm được khoảng ba trăm lượng bạc, đủ cho phu nhân rau cháo qua ngày. Phu nhân đi rồi, ta không vướng víu gì nữa. Phu nhân, đừng khóc! Phu nhân khóc, lòng ta xót xa! Sống giữa thời loạn, làm quan làm dân đều không dễ, con người thời loạn không bằng con chó thời bình! Phu nhân, sau khi về quê, phu nhân nên nhận một con trai của chú Hai làm con, để nó lo liệu cho phu nhân lúc về già. Ta đã viết thư đây rồi, chắc chắn chúng nó đồng ý. Con chim sắp chết tiếng hót bi thương, con người sắp chết lời nói dịu hiền! Phu nhân, xin phu nhân đừng nói vậy. Phu nhân mà cùng chết thì lấy ai đốt vàng mã cho ta? Phu nhân cũng không nên ở lại đây. Phu nhân mà ở lại, ta không quyết được bất cứ điều gì.
Phu nhân, ta có một chuyện không phải với phu nhân, vốn định nói từ lâu, kỳ thực chẳng nói thì phu nhân đã biết. Ta và Mi Nương – con gái Tôn Bính và cũng là con dâu Triệu Giáp – đi lại đã ba năm, nàng đã có thai với ta. Phu nhân, niệm tình vợ chồng ăn ở với nhau mười mấy năm, sau khi nàng sinh nở, nếu là trai thì phu nhân tìm cách đưa nó về Hồ Nam, nếu là gái thì thôi. Đây là sự gửi gắm cuối cùng của ta, phu nhân, xin hãy nhận một lạy của Tiền Đinh này?
17
Tân quan huyện Tiền Đinh có bộ râu đẹp, chảy mượt như thác đổ. Lần đầu thăng đường sau khi đáo nhiệm, với bộ râu đẹp này, ông giáng một đòn phủ đầu đối với bọn thơ lại ma mãnh của sáu phòng, bon sai dịch dữ như lang sói của ba ban. Người tiền nhiệm của ông là tri huyện Quyên, ông này mồm nhọn má tóp như mặt khỉ, râu cằm lơ thơ vài chục sợi như râu chuột, thuộc loại bất học vô thuật, chỉ giỏi đục khoét, ngồi trên công đường gãi má sờ tai, y hệt con khỉ đột. Tướng mạo khó coi và cái đức vô liêm sỉ của người tiền nhiệm, đã tạo cho người kế nhiệm Tiền Đinh ấn tượng tốt đẹp trong lòng mọi người. Dưới công đường, bọn thơ lại thấy tân quan tướng mạo đàng hoàng, dáng ngồi uy nghi chễm chệ, cảm thấy có cái gì đó mới mẻ. Ngồi trên, Tiền Đinh cũng cảm nhận được những ánh mắt thân thiện phía dưới.
Ông đỗ tiến sĩ năm Quí Mùi đời Quang Tự, cùng khoa với Lưu Quang Đệ, một trong sáu người của nhóm “Mậu Tuất lục quân tử” nổi danh trong thiên hạ. Lưu đỗ Nhị giáp, xếp thứ ba mươi tám. Sau khi thi đỗ, ngồi chơi xơi nước hai năm ở kinh thành, sau lo lót được bổ nhiệm tri huyện ở tỉnh ngoài. Ông đã qua hai nhiệm kỳ tri huyện, một ở Điện Bạch – Quảng Đông, một ở Phú Nhuận – Tứ Xuyên. Phú Nhuận là quê của Lưu Quang Đệ. Điện Bạch, Phú Thuận đều là những vùng sâu vùng xa, ma thiêng nước độc, dân tình đói khổ, dù muốn tham ô cũng không có gì để tham! Vì vậy, được trị nhậm ở Cao Mật giao thông thuận tiện, sản vật phong phú, tuy chẳng có gì nổi bật, nhưng ông cho rằng mình đã được thăng chức. Ông chí khí hiên ngang, tinh thần mạnh mẽ, mặt đỏ hồng rạng rỡ, mày ngài, mắt sáng như sao, râu cằm sợi nào sợi ấy như mã vĩ, rũ xuống tận mép bàn. Một bộ râu đẹp, tự nhiên đã có một nửa tướng quan. Các quan đồng liêu thường nói đùa: Tiền huynh, nếu Lão Phật gia nhìn thấy ông, thể nào cũng lập cho ông một đạo đài, chỉ tiếc cho đến nay ông có dịp được thấy long nhan Hoàng thượng, Hoàng Thái Hậu. Đứng chải râu trước gương, ông thở dài: Tiếc cho bộ mặt oai vệ, phí cả bộ râu Tiên của ông ta!
Trên đường đi từ Tứ Xuyên đến Sơn Đông xa lơ xa lắc, ông rẽ vào một ngôi chùa bên bờ Hoàng Hà thuộc tỉnh Thiểm Tây xin một thẻ quẻ. Quẻ này tốt, đại cát đại lợi. Quẻ nói rằng: Cá diếc vào Tây giang, sấm dậy trời quang! Quẻ thẻ giúp ông gạt bỏ tâm trạng u uất của người bất đắc chí, vững tin vào tương lai của mình. Đến nơi trị nhậm mới, tuy người mệt ngựa mỏi, lại thêm cảm hàn nhẹ, nhưng ông xuống ngựa là lao vào công việc. Nhận bàn giao của người tiền nhiệm xong, ông lập tức thăng đường gặp mặt những người dưới quyền, đọc diễn từ nhậm chức. Do tâm trạng phấn chấn, lời hay ý đẹp cứ tuôn như suối, thao thao bất tuyệt. Người tiền nhiệm của ông dốt đặc cán mai, nói một câu hoàn chỉnh cũng không xong! Giọng ông vốn ấm cúng có sức lôi cuốn, nay thêm hơi rè vì cảm mạo, càng có ma lực với người nghe. Nhìn ánh mắt của đám thuộc hạ, ông biết mình đã thành công. Diễn thuyết xong, ông vuốt râu bằng ngón trỏ và ngón cái một cách khoáng đạt, tuyên bố bãi đường. Tuyên bố xong, ông đưa mắt nhìn xuống dưới, để mỗi người cảm nhận được là ông đang nhìn mình, cái nhìn sâu xa đầy ý nghĩa, vừa như cảnh cáo vừa như vỗ về. Rồi ông đứng lên, gọn gàng, dứt khoát, quay người đi vào như làn gió thoảng.
Ít lâu sau, trong bữa tiệc ra mắt hương thân hiền sĩ, tướng mạo đường hoàng và bộ râu đẹp của ông, một lần nữa, trở thành tiêu điểm chú ý. Ông đã khỏi cảm hàn, đặc sản vùng Cao Mật – hoàng tửu và thịt chó – rất hợp với khẩu vị của ông, rượu vàng thư giãn gân cốt, lưu thông huyết mạch, thịt chó đẹp da đẹp dung nhan, do vậy ông đẹp ngời ngời, bộ râu càng quyến rũ. Ông đứng lên chúc rượu bằng một giọng ấm áp và mạnh mẽ, bày tỏ quyết tâm trong thời gian trị nhậm, đem lại ấm no cho dân chúng. Diễn từ của ông luôn bị ngắt quãng bởi những tràng vỗ tay. Ông vừa dứt lời, những tràng vỗ tay nhiệt liệt kéo dài dễ đến cháy hết nửa nén nhang. Ông giơ cao chén rượu mời đông đảo những quả mũ dưa, những bộ râu dê cạn chén. Họ ào ào đứng dậy, ào ào giơ chén rượu lên, ào ào tợp một hơi, uống cạn. Ông đặc biệt lưu ý quan khach một món ăn. Đó là món cải phỉ thúy tươi như còn sống, thoạt nhìn tưởng là chưa qua lửa. Các quan khách chưa ai dám đụng đũa vào món này, chỉ sợ làm trò cười cho thiên hạ thì mất mặt. Ông nói với quan khách món này thực ra đã chín, có đến hơn một chục sơn hào hải vị bên trong. Ông lấy đũa chọc nhẹ một cái, cái bắp cải tưởng như nguyên vẹn ấy nở bung, phô ra những cánh như cánh hoa đủ màu sắc. Một mùi thơm quí phái lập tức tỏa khắp gian phòng. Các hương thân hiến sĩ phần lớn là dân cổ cày vai bừa, chỉ quen chém to kho mặn, cách ăn cao nhã như thế này chưa từng thấy, chưa từng nghe. Được quan huyện cổ vũ, họ dùng đũa gắp một mẩu lá đưa lên miệng nhấm nhấm, gật gù khen ngon. Lão Hùng người lo liệu hầu cận, được bồi tiếp cùng quan huyện không bỏ lỡ dịp giới thiệu phu nhân quan huyện cùng với đám khách khứa, rằng bà Huyện là cháu ngoại Tăng Văn Chính Công – Tăng Quốc Phiên, món này bà tự vào bếp làm, có tên Bạch Thái Phỉ Thúy nổi tiếng gần xa. Bạch Thái Phỉ Thúy do Tăng Văn Chính Công khi làm Thị lang bộ Lễ tại Kinh, đã cùng đầu bếp tìm tòi nghiên cứu, thử nghiệm nhiều lần mới trở thành kiệt tác, món ăn mang dấu ấn trí tuệ của một danh thần! Văn Chính Công văn võ toàn tài, chế biến món ăn lại càng tuyệt diệu. Nghe lời giới thiệu của lão Hùng, mọi người vỗ tay càng dữ, mấy vị cao tuổi nước mắt giàn giụa trên gò má nhăn nheo, nước mũi cũng chảy ra, dính trên bộ râu già lão!
Sau ba tuần rượu, các hương thân luân phiên chúc rượu Tiền Đinh. Vừa chúc rượu, vừa ca tụng. Lời chúc tụng muôn hình muôn vẻ, rất sắc sảo, nhưng không ai quên ca ngợi bộ râu của quan lớn. Người bảo: Quan lớn đúng là Quan Vân Trường đầu thai trở lại, là Ngũ Tử Tư tái sinh. Người nói: Quan lớn rõ ràng là hóa thân của Gia Cát Võ Hầu, là Thác Tháp Thiên Vương xuống trần. Tiền Đinh tuy là người có bản lĩnh mà cũng không trụ nổi những lời tâng bốc của họ. Đã mời là phải uống, đã uống là uống cạn. Vậy là bỏ béng quan dạng, nói cười tự nhiên, bình luận khúc triết, hoa chân múa tay, đắc ý cả cười, biểu hiện đủ đầy chất phong lưu công tử, hòa nhập hoàn toàn với đám quan khách.
Hôm ấy, ông uống say ngả say nghiêng, các hương thân cũng say ngang say ngửa. Bữa tiệc chấn động vùng Cao Mật, trở thành chuyện cửa miệng mãi về sau. Món Bạch Thái Phỉ Thúy thì truyền tụng càng li kì, rằng trong cây bắp cải đó có lắp đặt máy móc, người khác không làm sao mở được. Tiền đại nhân chỉ cầm đũa chọc một cái vào cuống là nó nở bung như một đóa hoa sen trắng, xòe ra mấy chục cánh hoa, trên mỗi cánh hoa đều gắn một hạt trân châu lấp lánh.
Rất nhanh, mọi người đều biết, quan huyện mới đến là cháu rể Tăng Quốc Phiên. Ông tướng mạo đàng hoàng, bộ râu đẹp như râu Quan Vân Trường. Quan huyện không những đẹp một cách oai vệ, mà còn hai bằng tiến sĩ, là môn sinh của Hoàng thượng. Tài hoa rất mực, xuất khẩu thành chương. Rượu uống nghìn chung chưa say, say rồi phong độ như lúc tỉnh, với ông, rượu chỉ như gió lây cây Ngọc, như mưa bụi núi Xuân! Bà Huyện đúng là con nhà khuê các, chẳng những vào hàng quốc sắc, mà còn hiền thực nhu mì. Sự có mặt của quan ông quan bà là hồng phúc của nhân dân huyện Cao Mật.
Vùng Đông Bắc huyện Cao Mật có một người râu đẹp, họ Tôn, tên Bính, là ông bầu của gánh hát Miêu Xoang.
Miêu Xoang là một loại hình kịch xuất xứ từ vùng Đông Bắc Cao Mật, làn điệu du dương, diễn xuất độc đáo, mang đậm màu sắc thần bí, là hóa thân cuộc sống tinh thần của người dân vùng Đông Bắc Cao Mật. Tôn Bính là người kế thừa và cải cách kịch Miêu Xoang, có uy tín rất cao trong những người làm nghề. Khi biểu diễn ông không cần râu giả vì râu của ông đẹp hơn nhiều. Và cũng vì thế mà sinh chuyện. Cụ Lưu, tài chủ trong thôn ăn mừng sinh cháu ngoại, cỗ bày linh đình. Tôn Bính đến dự, ngồi cùng mâm với Lý Vũ, một nha dịch trên huyện. Trong khi ăn, Lý Vũ cậy mình là người nhà nước, ngồi ghế cao nhất. Lão khoác lác về quan huyện, từ ngôn luận đến cử chỉ, từ sở thích đến thị hiếu, cuối cùng, rôm rả nhất là chuyện về bộ râu của ông lớn.
Lý Vũ tuy đã nghỉ hưu ở nhà, nhưng vẫn mặc quần áo công sai, chỉ thiếu mỗi cái côn thủy hỏa. Lão hoa chân múa tay, thiên hô bát sát, khiến các vị nhà quê ngồi cùng mâm cứ ngồi ngây ra, quên cả uống rượu, dỏng tai lên nghe lão ba hoa, trố mắt ra nhìn nước bọt lão. Tôn Bính đã từng đi đây đi đó, hiểu rộng biết nhiều, nếu không có sự hiển diện của Lý Vũ, thì ông là nhân vật trung tâm… Nhưng mọi người quên bẵng ông, vì có mặt Lý Vũ, người mà sớm tối bên cạnh quan tri huyện. Ông uống một mình hết chén này đến chén khác, tỏ ý khinh miệt tên tay sai bằng những cái lườm và khịt mũi. Nhưng vẫn không ai chú ý đến ông, Lý Vũ không coi có ông trước mặt, thao thao bất tuyệt về bộ râu của quan lớn.
… Râu người thường, rậm nhất cũng chỉ một ngàn tám trăm sợi, nhưng râu của ông lớn, các vị đoán xem có bao nhiêu sợi? Hà hà, không đoán nổi đâu! Tháng trước ta cùng ông lớn xuống xã thị sát dân tình, có nói chuyện phiếm với ông lớn. Ông lớn hỏi ta:
– Tiểu Lý, đoán xem râu ta có bao nhiêu sợi?
Ta nói, bẩm quan lớn tiểu nhân không đoán được. Ông lớn nói, chú không đoán nổi đâu, nói thực để chú biết râu của bản quan tổng cộng chín nghìn chín trăm chín mươi chín sợi! Thiếu một sợi đầy một vạn. Đây là phu nhân đếm hộ bản quan. Ta hỏi ông lớn râu rậm như thế làm sao đếm được? Ông lớn nói, phu nhân là người cẩn thận, thông minh hơn người, cứ đếm được một trăm sợi, thì bà ấy lấy chỉ tơ buộc lại thành một túm, rồi đếm tiếp, không để sót sợi nào. Ta nói, bẩm ông lớn, mọc thêm một sợi nữa thì tròn một vạn! Ông lớn nói, Tiểu Lý, chuyện này thì chú không hiểu, mọi việc trên đời, tối kỵ là quá tròn trĩnh, thập toàn thập mĩ. Chú xem vầng trăng trên trời ấy, hễ tròn là phải khuyết; quả trên cây hễ chín là phải rụng. Mọi việc phải hơi khiếm khuyết một tí mới có thể tồn tại lâu bền. Chín nghìn chín trăm chín mươi chín là con số cát tường nhất trong thiên hạ, cũng là con số lớn nhất. Là dân, là bề tôi, đừng bao giờ nghĩ đến chữ vạn, điều bí ẩn này, chú phải cố công mà tìm hiểu. Những lời của ông lớn huyền diệu vô cùng, đến tận bây giờ ta vẫn chưa hiểu. Sau đó ông lớn bảo ta, Tiểu Lý, râu ta có bao nhiêu sợi chỉ có ba người biết, chú là một, một người là ta, một người nữa là phu nhân của ta. Chú phải kín mồm kín miệng, số sợi râu một khi tiết lộ ra ngoài, tai họa sẽ vô cùng, thậm chí còn gây ra đại họa!
Lý Vũ nâng chén rượu tợp một ngụm, cầm đũa gẩy gẩy đĩa thức ăn, luôn miệng “chậc chậc”, rõ ràng là chê món ăn thô thiển. Cuối cùng lão gắp một cái giá đậu, đưa lên miệng nhấm nhấm bằng hai răng cửa, chẳng khác con chuột mài răng khi bụng đã no. con trai cụ Lưu – chính là cái vị sinh được quý tử, bê một đĩa thịt thủ nóng hổi chạy tới, đặt ngay trước mặt Lý Vũ, dùng bàn tay lấm lem đầu mỡ lau mồ hôi trên mặt, vẻ áy náy:
– Thưa bác, nhà quê chúng cháu chẳng có món gì ngon, mong bác chiếu cố.
Lý Vũ nhổ cái giá đỗ xuống đất rồi đặt đôi đũa xuống bàn đánh cạch một cái, không bằng lòng nhưng làm ra vẻ khoan dung, nói:
– Chú Lưu này, chỗ này thì chú không đúng rồi! Chú cho rằng ta vì ăn mà đến đây phải không? Ta định ăn gì thì vào bất cứ nhà hàng nào, vừa ngồi xuống không cần mở miệng gọi, là hải sâm bào ngư móng lạc đà bàn chân gấu, đầu khỉ yến sào… bát nọ tiếp bát kia bê đến trước mặt. Ăn một, thưởng thức hai, mắt nhìn ba, như thế mới gọi là yến tiệc! Nhà chú thì có gì đáng kể? Hai đĩa đậu xanh sống dở chín dở, một dĩa thịt lợn nửa ôi nửa không, một be hoàng tửu không nóng không lạnh, thế mà gọi là tiệc mừng? Ta đến nhà chú, một là để vẻ vang cho bố chú, rạng rỡ nhà cửa chú, hai là chuyện trò với bà con. Ta bận tối mắt tối mũi, đến đây dù chỉ một lúc cũng chẳng dễ dàng gì.
Ông con cả nhà Lưu bị Lý Vũ lên lớp, biết phận chỉ cúi đầu mà nghe, lợi dụng lúc Lý Vũ ho, ông ta lặng lẽ chuồn thẳng.
Lý Vũ nói:
– Cụ Lưu cũng kể là một hương thân có chữ, làm sao lại đẻ ra cái đồ vai u thịt bắp thế nhỉ?
Mọi người im lặng, không ai dám tiếp lời Lý Vũ. Tôn Bính tức lộn ruột, thò tay kéo đĩa thịt thủ về phía mình, nói:
– Ông Lý người nhà nước ăn quen sơn hào hải vị, để dĩa thịt này trước mặt ông, rõ ràng khiến ông ngán ngẩm. Tiểu nhân bụng đầy rau cỏ, đang cần bôi trơn lòng ruột và cũng cần đi ngoài cho dễ!
Nói xong, không thèm nhìn ai, nhét đầy miệng từng miếng thịt vuông có, dài có, đầy mỡ có, vừa nhai vừa hít hà.
– Ngon! Ngon quá! Đúng là ngon!
Lý Vũ phẫn nộ, trừng mắt nhìn Tôn Bính, nhưng Tôn Bính không hề ngẩng lên, luồng mắt của Lý Vũ rơi vào khoảng không, thành ra không có cảnh chiếu tướng nhau! Lão đưa mắt nhìn mọi người, lắc đầu, bĩu môi, tỏ vẻ khinh thị của bậc bề trên khi gặp trường hợp khó xử. Những người cùng mâm sợ sinh chuyện, bèn mời rượu lão. Đắm đò giặt mẹt, lão tranh thủ uống cạn một hơi, lấy tay áo chùi miệng, trở lại câu chuyện bị ngắt quãng vì bận lên lớp cho con cả cụ Lưu. Lão nói:
– Các vị hương thân, rằng thì là chúng ta coi nhau như anh em, nên ta mới nói chuyện râu của ông lớn với các vị. Người ta có câu: “Thân hay không thì cũng là đồng hương”, chuyện ta kể, các vị hãy chôn chặt trong lòng, nhất thiết không được kể lại với ai. Bí mật này mà bị lộ, đến tai ông lớn, cầm bằng đập vỡ bát cơm của ta! vì rằng rất nhiều chuyện, chí có ông lớn, phu nhân và ta biết. thôi, ta xin kiếu đây!
Lý Vũ cung tay xá một xá, chào mọi người. Mọi người đồng thanh:
– Xin cứ yên tâm, dân Đông Bắc chúng tôi có một người như ông Lý đâu phải dễ? Làng trên xóm dưới đều ngong ngóng thơm lây vì ông, làm gì có chuyện hớt lẻo để tự hại mình?
– Chính vì là người nhà, các vị mới bô bô cái miệng – Lý Vũ lại uống một chén nữa, thấp giong với vẻ bí hiểm – Ông lớn thường gọi ta vào phòng làm việc hầu chuyện. Bọn ta ngồi đối diện như hai anh em, vừa uống hoàng tửu ăn thịt chó, vừa chuyện trên trời dưới đất, chuyện xưa chuyện nay, chuyện Trung Quốc và chuyện nước ngoài. Ông lớn là con người uyên bác, chẳng có chuyện gì trên đời mà ông không biết. Ông lớn chỉ thích uống hoàng tửu và ăn thịt chó. Chuyện miết đến qua nửa đêm, phu nhân sốt ruột sai con hầu đến bảo: “Khuya rồi, mời ông lớn đi nghỉ!” Ông lớn bảo: “Mai Hương, bảo phu nhân nghỉ trước đi, ta nói chuyện với chú Lý một lát nữa”. Do vậy mà phu nhân không bằng lòng về ta. Một hôm, ta có việc vào hậu đường, chạm trán phu nhân ở đó. Phu nhân chặn ta lại, nói:
– Cái chú Lý này suốt đêm tán hươu tán vượn, để ông lớn quên cả ta, chú có đáng đánh đòn không? Ta sợ quá luôn miệng nói:
– Đáng đánh ạ, đáng đánh ạ.
Mã Đại Đồng Sinh xen vào:
– Lý đại ca, không rõ phu nhân quan huyện mặt mũi, thế nào, nghe nói bà rỗ mặt…
– Bậy, bậy hết sức! Kẻ nào nói vậy, xuống địa ngục phải tội rút lưỡi! – Lý Vũ mặt đỏ gay, giọng buồn buồn – Chú Mã Đại Đồng Sinh này, đầu chú toàn bã đậu hay cháo loãng? Chú đã từng được ăn học, những gì nói trong sách chú quẳng đi đâu cả? “Triệu Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trịnh vương”, “Thiên địa huyền hoàng, vũ trụ hồng hoang”, chú không chịu động não một tí, xem phu nhân quan huyện con cái nhà ai? Khuê các chính tông đấy, hòn ngọc trên tay đấy! Từ nhỏ vú nuôi hàng đàn, người hầu hàng lũ! Phòng the thì sạch đến nỗi rơi miếng bánh trứng, nhặt lên không một hạt bụi dính vào. Cuộc sống như vậy làm sao mắc bệnh đậu mùa? Đã không bị đậu mùa thì làm sao rỗ mặt, trừ phi Mã Đại Đồng Sinh nhà ông lấy móng tay xiết vào? – Cử tọa cười ầm, Mã Đại Đồng Sinh cứng họng, đỏ mặt vì ngượng, tự giải thích:
– Đúng vậy, người đẹp như tiên thì rỗ mặt thế nào được, lời đồn ác quá!
Lý Vũ liếc đĩa thịt trước mặt Tôn Bính lúc này chẳng còn mấy miếng, nuốt trước bọt, nói:
– Quan hệ như anh em giữa ông lớn và ta thì khỏi nói. Ông lớn từng bảo ta: “Chú Lý này, hai chúng ta đúng là duyên trời, không hiểu sao ta cảm thấy chú với ta là một, tim gắn với tim, phổi kề bên phổi, ruột liền với ruột, dạ dày thông với dạ dày”…
Tôn Bính bật cười, suýt nữa văng cả miếng thịt trong miệng ra ngoài. Ông dướn cổ nuốt đánh ực, nói:
– Nói vậy có nghĩa là, ông lớn no thì ông không thấy đói nữa?
Lý Vũ giận dữ hỏi:
– Tôn Bính, ông nói kiểu gì thế? Khen cho ông là một kép hát, quanh năm suốt tháng sắm các vai đế vương khanh tướng, tài tử giai nhân, hát ra rả những trung hiếu tiết nghĩa, vậy mà đạo lý làm người thì mít đặc. Cả mâm chỉ có đĩa thịt thủ là ngon, một mình ông đớp sạch, ăn đến nỗi nhờn mép nhờn môi, còn phun cứt phun đái ra làm gì?
Tôn Bính cười:
– Ông đã ngán tận cổ những món hải sâm, yến sáo, vó lạc đà, chân gấu, vậy ông để tâm đĩa thịt thủ làm gì?
Lý Vũ nói:
– Ông lấy cái bụng tiểu nhân để đo cái tâm của người quân tử! Cứ tưởng ta vì ta sao? Ta vì số đông ở đây tỏ nỗi bất bình đấy chứ!
Tôn Bính cười:
– Các vị ấy liếm đít ông đã đủ no, cần gì ăn thịt?
Mọi người cả giận, nhao nhao chửi Tôn Bính. Tôn Bính cáu lên, ăn sạch chỗ thịt, lại còn lấy màn thầu vét sạch đĩa. ăn xong, ông mở túi thuốc, nhồi một tẩu, thản nhiên ngồi hút phì phèo.
Lý Vũ lắc đầu:
– Đúng là bố mẹ ông chỉ biết đẻ mà không biết dạy, đáng để quan lớn Tiền tóm ông lên huyện, nện cho năm mươi gậy vào mông!
Nàng tung mình nhảy xuống giường, quên luôn cả chuyện bói hoa lúc nãy, làm như chưa bao giờ do dự trong chuyện đi xem mặt phu nhân quan huyện. Nàng múc nước rửa mặt lần nữa, ngồi trang điểm trước gương. Trong gương, nàng má phấn môi son, dù mắt hơi mọng một tí, nhưng vẫn hiển nhiên là người đẹp. Nàng lấy trong hòm số quần áo thực ra đã chuẩn bị từ trước, thay ngay trước mặt Giáp Con. Anh chàng trông thấy bộ ngực nàng, liền đòi sờ ti. Nàng dỗ như dỗ trẻ: Giáp Con ngoan nào, cứ ở nhà, tui đi cướp trái cây về cho mà ăn!
Tôn Mi Nương trên mặc áo chẽn đỏ, dưới mặc quần xanh lục, bên ngoài, lồng chiếc váy cũng màu xanh lục, vậy là một đóa hoa mào gà rực rỡ đi trên phố. Nắng đẹp, gió nam ấm áp đưa tới hương thơm lúa tiểu mạch sắp chín. Gió nam vuốt ve, tiết xuân ấm áp, đúng là thời tiết của những phụ nữ đa tình! Nàng sốt ruột, chỉ tiếc không thể một bước tới huyện lị, chiếc váy quẩn chân, khiến nàng không thể đi nhanh. Sốt ruột nên sợ bước chậm, sốt ruột nên sợ đường dài. Nàng không ngần ngại xốc cao váy để bước nhanh, vượt lên đám phụ nữ bó chân lạch bạch đằng sau.
– Chị Hai Triệu, vội gì thế?
– Chị Hai Triệu, đi chữa cháy đấy à?
Nàng không trả lời, cắt đường đi tắt từ ngõ nhà họ Đới sang cổng bên của huyện. Nửa cây mận nhà họ Đới vươn qua tường nở đầy hoa. Hương thơm thoang thoảng, tiếng ong vo ve, chim yến thủ thỉ. Nàng giơ tay ngắt một bông hoa mận cài lên mái tóc. Con chó nhà họ Đới thính tai, sủa gâu gâu. Nàng phủi bụi tuy rằng không có bụi, thả váy xuống, bước vào huyện nha. Tên lính lệ nhìn nàng gật đầu, nàng mỉm cười đáp lại. Chỉ một thoáng, nàng đã mồ hôi đầm đìa trước sảnh Ba. Đứng gác sảnh Ba là một anh chàng mày rậm mắt sâu, nói giọng tỉnh ngoài. Mi Nương đã từng trông thấy anh ta hôm đọ râu, biết anh là người thân tín của quan huyện. Người thanh niên gật đầu chào, nàng vẫn dùng nụ cười mỉm để đáp lại. Trên sân chật kín phụ nữ, bọn trẻ con len lỏi giữa đám người. Nàng lách mình, rẽ bằng tay mấy lần là đã lên tận cùng phía trước. Nàng trông thấy dưới mái đao cong vắt của sảnh Ba, kê chiếc kỷ hình chữ nhật, phía sau kỷ là hai chiếc ghế bày song song, ghế bên trái quan huyện ngồi ngay ngắn, ghế bên phải phu nhân quan huyện ngồi ngay ngắn. Phu nhân đội mũ phượng, lưng thẳng đuỗn, chiếc áo đỏ như ráng chiều rực lên dưới nắng. Phu nhân che mặt bằng một tấm mạng mỏng, chỉ lờ mờ khuôn mặt, không thể nhìn rõ dung nhanh. Mi Nương lập tức cảm thấy nhẹ nhõm. Lúc này, nàng đã hiểu, nàng sợ nhất là phu nhân mặt hoa da phấn. Phu nhân đã không chịu lộ diện cho mọi người trông thấy, chứng tỏ bộ mặt phu nhân không đẹp. Tự nhiên Mi Nương đứng thẳng, trong lòng bùng lên ngọn lửa hy vọng. Lúc này, nàng mới ngửi thấy mùi hoa đinh thơm gắt. Nàng trông thấy hai bên góc sân, hai cây tử đinh hương cao to, hoa nở trắng một khoảng trời. Nàng còn trông thấy từng dãy tổ yến dưới mái hiên sảnh Ba, đàn yến bận rộn tíu tít bay ra bay vào, yến con há miệng màu vàng kêu chiếp chiếp. Truyền rằng, chim yến không làm tổ nơi công đường, mà chọn mái nhà của những nhà nông lành hiền. Nay từng đàn chim yến làm tổ ở huyện lị là điềm lành, là hồng phúc do quan huyện đem lại, chứ không phải do quan bà che mặt, chắc hẳn thế! Nàng chuyển ánh mắt từ phu nhân sang quan huyện, hai luồng ánh mắt gặp nhau, nàng cảm thấy sự ái mộ trong cái nhìn của ông lớn, vậy là lòng nàng như mê như say. Ông lớn ơi ông lớn, không nghĩ rằng một ông tiên lại lấy một phu nhân không dám để người ta xem mặt! Mặt bà ấy rỗ chăng? Bà ấy mắt hiếng mũi tẹt chăng? Bà ấy có hàm răng đen chăng? Ông lớn, thật buồn cho ông… Mi Nương đang nghĩ ngợi lung tung chợt nghe phu nhân ho lên một tiếng. Quan huyện chuyển luồng mắt theo tiếng ho, rồi nghoảnh sang nói với phu nhân điều gì đó. Một a hoàn tóc rẽ giữa, bê một sọt táo đỏ và lạc củ, nắm từng vốc tung về phía dân chúng. Bọn trẻ tranh cướp nhau, gây nên cảnh hỗn loạn. Mi Nương trông thấy phu nhân hình như vô ý nhếch váy lên một cái, lộ ra hai gót sen vàng nhòn nhọn. Đám người đứng sau nàng ồ lên tán thưởng. Bàn chân phu nhân quả là đẹp, nàng Mi Nương chân to chỉ muốn độn thổ. Tuy đã có váy dài che khuất, nhưng nàng nghĩ rằng phu nhân đã biết chân nàng to, chẳng những biết chân nàng to, mà còn biết nàng si mê quan huyện. Phu nhân lộ hai gót sen vàng là để làm nhục nàng, giáng cho nàng một đòn. Nàng không định xem không muốn xem, nhưng hai mắt cứ dán vào bàn chân nhỏ bé của phu nhân. Bàn chân của phu nhân cong cong như củ ấu. Giày của phu nhân thật đẹp, đoạn xanh thêu hoa đỏ. Bàn chân của phu nhân như có phép màu, Mi Nương nhà họ Tôn đầu hàng ngay lập tức! Nàng cảm thấy hai ánh mắt diễu cợt xuyên qua tấm mạng, nhìn vào mặt nàng. Không, không phải thế, cái nhìn như xuyên thủng vậy, soi dọi đôi bàn chân nàng. Mi Nương hình như cảm thấy phu nhân khẽ nhếch môi, nụ cười cao ngạo trên khuôn mặt. Mi Nương biết nàng đã thua, thua thảm hại. Khuôn mặt nương nương mà đôi chân con ở! Nàng hốt hoảng rút lui, sau lưng hình như có tiếng cười nhạo. Lúc này, nàng mới phát hiện ra mình tách hẳn lên phía trước, độc diễn trước mặt ông lớn và phu nhân. Càng thấy xấu hổ, càng luống cuống, chân giẫm phải váy, váy rách toang, nàng ngã chổng bốn vó.
Về sau, nàng nhiều lần nhớ lại, khi nàng ngã, ông lớn đã đứng phắt dậy. Nàng quả quyết sắc mặt ông lớn tỏ ra thương cảm và quan tâm đến nàng. Chỉ có những người chung trái tim khối óc mới biểu hiện như thế. Nàng còn quả quyết rằng, nàng tận mắt trông thấy, khi ông lớn định bước qua cái kỷ chạy tới nâng nàng dậy, phu nhân đã đá rất mạnh vào bắp chân ông lớn. Ông lớn sững người, rồi từ từ ngồi xuống. Khi phu nhân làm động tác trên với ông lớn, bà vẫn ngồi thẳng như không hề có chuyện xảy ra.
Mi Nương đứng phắt dậy trong tiếng cười diễu của đám phụ nữ.
Nàng sửa lại váy, không còn thì giờ chú ý đôi bàn chân to vừa nãy đã để lộ trước mặt ông lớn và phu nhân, quay người len vào đám đông. Nàng cắn chặt môi cố ghìm tiếng khóc, nhưng nước mắt thì tuôn ra như suối. Ra khỏi đám người, vẫn nghe những người đàn bà bàn tán sau lưng, người cười khúc khích, người lại bắt đầu tán dương đôi chân nhỏ của phu nhân. Nàng hiểu, phu nhân làm như vô ý, thực ra là cố ý phô bày cặp chân mình. Đúng là một đẹp che trăm xấu, phu nhân chưng ra một cặp chân đẹp, để người ta quên đi dung mạo của mình. Trước khi rời đám người, nàng lại nhìn ông lớn, và thật kỳ lạ, luồng mắt hai người lại gặp nhau. Nàng cảm thấy cái nhìn của ông lớn buồn rười rượi như là để an ủi nàng, cũng có thể là biểu thị sự đồng tình với nàng. Nàng lấy tay áo che mặt chạy khỏi sảnh Ba, vừa rẽ vào ngõ nhà họ Đới, nàng cất tiếng khóc thê thảm.
Mi Nương hớt hải trở về nhà, Giáp Con sán lại đòi trái cây. Nàng gạt Giáp Con sang một bên, bước vào trong buồng, nhào lên giường nằm khóc. Giáp Con đứng sau lưng, thấy nàng khóc cũng ồ ồ khóc theo. Nàng ngồi dậy, vớ lấy cái cán chổi quật vào chân mình. Giáp Con sợ quá, giữ chặt tay nàng lại. Nàng nhìn chằm chằm vào khuôn mặt vừa xấu vừa ngây ngô của Giáp Con, bảo: Giáp Con, anh lấy dao gọt bớt chân đi cho tui.
18
Tôn Bính hỏi:
– Ta với Tiền đại nhân có thù oán gì?
Lý Vũ cười:
– Anh già, đúng là người sang hay quên! Ngươi vừa nói hôm qua, rằng bộ râu của quan lớn Tiền không đẹp bằng bộ lông trong đũng quần ngươi, quên rồi à?
Tôn Bính trừng mắt nhìn Lý Vũ:
– Lý Vũ, ngươi là kẻ ngậm máu phun người! Ta nói câu ấy hồi nào? Ta có điên, có ngốc đâu mà nói như thế?
Lý Vũ nói:
– Ngươi không điên, không ngốc, nhưng bị thịt lợn làm cho lú lẫn!
– Ngươi không vu oan giá họa cho ta được đâu! – Tôn Bính nói.
– Mình làm mình chịu mà! – Lý Vũ nói – Ngươi có mặc quần áo vào không? Không mặc thì cứ trần truồng mà đi, muốn mặc thì mặc nhanh lên, bọn ta không có thì giờ đấu khẩu với thằng con hát như ngươi. Tiền đại nhân đang đợi ở công đường để kiểm tra bộ lông của nhà ngươi!
Tôn Bính bị bọn công sai xô đẩy, loạng choạng bước vào công đường huyện. Ông hơi bị choáng, người nóng ran, những chỗ bị thương nhâm nhẩm đau. Ông bị giam trong đại lao đã ba hôm, trên người bám đầy giòi bọ. Trong ba ngày, ngục tốt lôi ông ra sáu lần, lần nào cũng bịt mắt. Roi da, gậy tày rơi như mưa trên người, đau đến nỗi ông nhảy như choi choi, đập cả vào tường. Trong ba ngày, ngục tốt chỉ cho ông uống một bát nước đục, ăn một bát cơm hẩm. Ông cảm thấy đói và khát kinh khủng, người đau như giần, máu trong người gần như bị giòi bọ hút cạn. Ông trông thấy những con vật bé tí bụng đầy máu bám trên tường, lấp lánh từng mảng, giống như những hạt kiều mạch tẩm dầu. Ông cảm thấy không chịu đựng được nữa, thêm ba ngày nữa, chắc chắn ông sẽ chết. Ông hối hận trong một lúc cao hứng đã nói những câu không nên nói. Ông cũng hối hận về việc đã giành lấy đĩa thịt lợn. Ông rất muốn giơ tay vả vào miệng mình một cái để trừng phạt nó đã gây tai họa. Nhưng vừa giơ tay lên, mắt ông nẩy đ đóm, cánh tay đau buốt, nặng như thỏi sắt nguội. Và nó lại buông thõng, bất lực.
Hôm ấy xấu trời, phải đốt mười mấy cây nến đại bằng mỡ cừu trong công đường. ngọn lửa nhảy nhót, không ổn định, khói tuôn cuồn cuộn. Mùi hoi của mỡ cừu xộc vào mũi. Ông cảm thấy buồn nôn, trong bụng như có một vật cứng đang va đập, đang cuộn lên, một mùi tanh lợm xộc lên mũi. Ông nôn mửa ngay tại công đường, cảm thấy xấu hổ, thậm chí thấy mình có lỗi. Ông lau những vết bẩn trên râu, định nói câu xin lỗi, thì từ phía sau công đường vọng ra một tiếng “mi-ao”, tiếng kêu trầm, tròn trịa, tỏ ra đã được huấn luyện thành thục. Tiếng kêu làm ông giật thót, nhấtt thời không biết đối phó thế nào. Lúc này, tên công sai áp giải ông đạp một cái vào kheo chân ông. Ông khuỵu xuống trên nền đá.
Phủ phục trên mặt đất ông cảm thấy dễ chịu hơn đứng. Sau khi nôn, bụng có khá hơn. Đột nhiên ông cảm thấy mình không nên khóc lóc, xin xỏ. Mình làm, mình chịu, đứt đầu chẳng qua là một vết thương bằng miệng bát! Tình hình này, chắc rằng quan huyện không tha ông, giả vờ ngất xỉu cũng không ăn thua! Dù sao cũng chết, vậy thì phải cứng cỏi mà chết, anh dũng mà chết! Chỉ sau hai mươi năm là cùng, người ta sẽ viết thành vở rồi đem công diễn, cũng coi là tiếng thơm để đời. Nghĩ vậy liền cảm thấy máu dồn trong huyết quản, mạch đập ở thái dương, cái khát cái đói cái đau lập tức giảm đi nhiều, mắt lại trợn, nhỡn cầu lại chuyển động linh hoạt, đầu óc lại tỉnh táo. Sự tích bi tráng của các anh hùng hảo hán mà ông sắm vai, cùng với lời ca khẳng khái lại rộn lên trong ông. Mặc cho hình trượng đả nát thịt, nghiến răng ta chịu không than van! Thế là ông, ưỡn ngực, ngẩng cao đầu, trong tiếng mi-ao mi-ao liên chi hồ điệp của bọn sai nha cáo mượn oai hùm, trong bầu không khí thâm nghiêm, bí hiểm.
Ông ngẩng đầu lên, trước tiên nhìn thấy, dưới bức hoành Chính Đại Quang Minh, trong ánh sáng rực rỡ của những ngọn nến, là viên quan huyện mặt đỏ râu dài, uy nghi như một thần tượng ngồi sau án bằng gỗ nặng trịch, chạm trổ hoa văn. Quan huyện cũng đang chăm chú nhìn ông. Ông phải thừa nhận rằng, quan huyện dung mạo đường hoàng, không như Lý Vũ miêu tả. Nhất là bộ râu rũ trước ngực, sợi nào sợi ấy mượt như lông đuôi ngựa, rất khác đời. Ông bất giác cảm thấy xấu hổ, tự nhiên nảy sinh tình cảm thân thiết với quan huyện, chẳng khác gặp lại người anh em ruột thịt xa nhau đã lâu ngày!
Anh em gặp nhau tại công đường, nhớ lại năm xưa lệ vấn vương.
Quan huyện vỗ án vang dội sảnh đường. Tôn Bính giật mình, lại thấy căng thẳng. Nhìn vẻ mặt oai nghiêm của quan huyện, ông như tỉnh giấc mơ, hiểu rằng công đường đâu phải sân khấu, quan huyện đâu phải diễn viên đeo râu, còn mình cũng không phải người hùng trong vở diễn!
– Kẻ dưới kia, nói rõ họ tên!
– Tiểu nhân Tôn Bính.
– Quê quán?
– Làng Đông Bắc.
– Tuổi?
– Bôn mươi nhăm.
– Nghề gì?
– Bầu gánh hát.
– Có biết vì sao triệu ngươi đến đây?
– Tiểu nhân rượu say nói bậy, mạo phạm quan lớn.
– Nói gì?
– Tiểu nhân không dám nhắc lại.
– Cho phép nói.
– Tiểu nhân không dám.
– Nói!
– Tiểu nhân nói rằng, bộ râu của quan lớn không bằng bộ lông trong đũng quần tiểu nhân.
Hai bên công đường có tiếng khúc khích cười vụng. Tôn Bính nhìn lên, thấy nét ranh mãnh thoáng qua trên mặt quan huyện, ngay sau đó là vẻ nghiêm nghị giả vờ.
– Tôn Bính to gan! – Quan huyện đập bàn quát – Vì sao ngươi hạ nhục bản quan?
– Tiểu nhân đáng chết! Tiểu nhân nghe nói quan lớn có bộ râu đẹp thì không nhục, trót nói bậy…
– Ngươi dám đọ râu với ta không?
– Tiểu nhân sở trường không có gì, chỉ có bộ râu vẫn tự nhận là nhất thiên hạ. Tiểu nhân diễn “Đơn đao hội”, đóng vai Quan Vân Trường không cần đeo râu giả.
Trường giang chảy về đông, sóng nước muôn trùng, thuận gió tây dập dềnh chiếc bánh, rời cửu trùng lầu các, dấn thân nơi nọc rắn hang hùm…
– Ngươi đứng dậy để bản quan xem bộ râu nhà ngươi!
Tôn Bính đứng lên, người lảo đảo như đứng trên thuyền.
Vọng đông Ngô tinh kỳ phấp phới, hổ giữa đàn dê, chi sợ quân Tào…
– Bộ râu quả là đẹp, nhưng chưa chắc đã thắng nổi bản quan!
– Tiểu nhân không cho là thế.
– Nhà ngươi muốn đọ râu với bản quan theo kiểu nào?
– Tiểu nhân muốn dùng nước để đọ.
– Nói tiếp.
– Râu của tiểu nhân chọc thẳng xuống nước, không nổi ngang.
– Có chuyện như vậy sao? – Quan huyện vuốt râu, im lặng hồi lâu, hỏi:
– Nếu thua thì sao?
– Nếu thua thì râu của tiểu nhân là lông trong đũng quần của đại nhân.
Bọn nha dịch không nhịn được, cười rũ. Quan huyện đập bàn quát:
– Tôn Bính to gan, dám nói tục!
– Tiểu nhân đáng chết.
– Tôn Bính, nhà ngươi nhục mạ mậnh quan của triều đình, lẽ ra phải trị tội theo pháp luật, nhưng bản quan thấy nhà ngươi là coi người thẳng thắn, nên nhận lời đọ râu với nhà ngươi. Nếu ngươi thắng, tội của ngươi sẽ được xóa. Nếu thua, ngươi phải tự mình vặt hết râu và không được nuôi lại. Bằng lòng không?
– Tiểu nhân bằng lòng.
– Bãi đường! – Tiền đại nhân nói xong, đứng dậy đi vào nhẹ nhàng như cơn gió thoảng, khuất sau tấm bình phong.
Địa điểm đọ râu là cái sân rộng thênh thang, nằm giữa cổng lớn và nghi môn của huyện lỵ. Quan lớn Tiền không muốn mở rộng qui mô của cuộc thi, chỉ mời hơn chục bô lão có danh vọng ở huyện, một là đến xem, hai là làm chứng. Nhưng tin tức về cuộc đọ râu giữa quan huyện và Tôn Bính không cánh mà bay, từ sáng sớm người ta lũ lượt kéo nhau về trước cổng huyện lỵ. Những người đến đầu tiên sợ oai của nha môn, đứng xa mà ngó, về sau, người đông lên, xô đẩy nhau nhích lại gần cổng. Những người dân ngày thường đi qua cổng huyện không dám ngẩng đầu lên, nay chen bật cả nha dịch ào qua cổng lớn, tràn vào sân. Chỉ một loáng, cái sân đã dày đặc những người là người, vậy mà bên ngoài cổng, dòng người vẫn cuồn cuộn kéo đến. Một số trẻ tinh nghịch trèo lên cả ngọn cây, ngồi lên đầu tường.
Chính giữa sân, hơn chục ghế băng bằng gỗ lim nặng trịch quây thành hình đa giác. Các vị hương thân được mời đến ngồi vào ghế. Ngồi ngay ngắn, người nào người ấy vẻ mặt nghiêm túc, như gánh trên vai gánh nặng ngàn cân. Ngồi ghế băng còn có thơ lại về tư pháp, hậu cần và thơ lại lục phòng. Vòng ngoài là các nha dịch đứng quây thành vòng tròn, dùng lưng chắn người xem. Giữa vòng, hai thùng cao to đựng đầy nước kê liền nhau. Người đọ râu vẫn chưa tới. Mọi người hơi sốt ruột, mặt lấm tấm mồ hôi. Những đứa trẻ lẩn như trạch khiến đám đông thỉnh thoảng lại nhốn nháo. Bọn nha dịch bị xô đẩy đứng không vững, như những thân cây ngô bị nước lũ ào tới. Ngày thường, chúng giơ nanh múa vuốt, hôm nay lại tỏ ra dễ tính. Quan hệ giữa quan huyện và nhân dân vì có chuyện đọ râu mà trở nên thân thiết lạ thường. Một ghế băng bị gạt đổ, vị hương thân vội nhảy sang bên, giương cặp mắt gà chọi nhìn đám đông, đầu nghiêng nghiêng như đáng giá đối thủ. Một vị to béo, tóc điểm bạc, ngã sấp mặt, phủ phục trên mặt đất như lợn, mãi mới đứng dậy được. Ông ta vừa phủi bụi trên người vừa chửi, khuôn mặt to bè sưng sỉa, y hệt chiếc bánh mới ra lò. Một nha dịch bị xô ngã đè lên mép ghế, xương sườn đau nhói, gào lên như lợn bị chọc tiết cho đến khi đồng nghiệp của anh ta lôi dậy mới thôi. Đầu lĩnh Ban Điều Tra Lưu Phúc, một thanh niên thanh mảnh, da đen nhảm đứng trên ghế băng, từ tốn nói với đám đông:
– Bà con đừng chen lấn, chết bẹp ra đấy thì lôi thôi to!
Quá nửa buổi, diễn viên chính ra sân khấu. Quan lớn Tiền từ tam cấp công đường, thong dong bước qua nghi môn, tiến ra sân. Aùnh nắng chan hòa trêm mặt ông. Ông vẫy tay chào công chúng. Quần chúng không nhảy lên, không vỗ tay hoan hô, không chảy nước mắt, nhưng rõ ràng là xúc động. Đúng ra, phong thái của quan huyện làm quần chúng ngỡ ngàng. Người ta nói nhiều về dung mạo đẹp đẽ của quan huyện nhưng ít khi được gặp. Hôm nay ông lớn không mặc quan phục, chỉ quần áo thường, vẻ nhàn tản. Nửa mái đầu phía trước cạo nhẵn, chân tóc ánh lên màu trắng xanh; nửa sau, tóc xức dầu đen nhánh; đuôi sam to, dài chấm mông, phần chót găm viên ngọc màu xanh nhạt và một lục lạc bằng bạc, mỗi cử động lại kêu loong coong. Ông lớn mặc áo chùng bằng đoạn trắng rộng thùng thình, chân đi giày vải màu xanh nhạt có gờ nổi chạy dọc mũi, ống quần buộc túm bằng dây tơ, đũng quần rộng tới mức tưởng đó là con sứa đang bơi. Đương nhiên đẹp nhất vẫn là bộ râu rũ trước ngực của ông lớn, bộ râu sao mà sáng, sao mà bóng, sao mà trơn, sao mà mượt! Bộ râu sáng bóng trơn mượt rũ trước ngực áo trắng bong, trông mà sướng mắt! Trong đám đông có một phụ nữ đắm đuối nhìn quan huyện phong thái hào hoa như cây ngọc thụ trước làn gió nhẹ, mà như mê như say, chân nhẹ bỗng, nước mắt tràn mi. Một buổi tối mưa phùn cách đây vài tháng, nàng ngơ ngẩn trước phong độ của quan lớn Tiền, nhưng khi đó quan lớn mặc quan phục nghiêm chỉnh, khác hẳn hôm nay mặc thường phục. Ông lớn mặc quan phục, với không tới; ông lớn mặc thường phục, giản dị dễ gần.
Người phụ nữ ấy là Tôn Mi Nương.
Tôn Mi Nương chen lên phía trước, mắt vẫn dán vào ông lớn. Nàng như mê đi trước từng cái giơ tay, cái nhắc chân, cái nhìn của ông lớn. Dẫm phải chân người khác ư, bất chấp! Hích phải vai người ta ư, mặc kệ! Chửi mắng trách móc ư, dứt khoát làm như không nghe thấy! Một số người nhận ra nàng là con gái Tôn Bính, một trong hai nhân vật chính của cuộc đọ râu hôm nay. Họ cũng biết nàng đang lo cho tính mạng của cha. Mọi người cố né để nàng đi vào vòng trong. Cuối cùng, nàng đụng đầu gối vào ghế băng, nhìn qua vai nha dịch, trái tim nàng như bay lên để rồi rơi vào giữa ngực ông lớn mà làm tổ, mà sinh con đẻ cái, mà thụ hưởng sự dịu dàng ở đó!
Nắng chan hòa khiến mắt ông lớn càng long lanh, càng diễm tình. Ông lớn vòng tay chào các vị hương thân, chào cả công chúng. Ông không nói gì, chỉ mỉm cười, nụ cười đầy quyến rũ. Mi Nương cảm thấy ánh mắt ông lớn dừng lại một thoáng trên mặt mình, cái dừng như cố ý, khiến nàng như mê đi, mất hết cảm giác. Tất cả những gì trong người, dịch thể, nước mắt, nước mũi, mồ hôi, tiết dịch, xương cốt đều tan ra nước. Nàng cảm thấy mình nhẹ như chiếc lông tơ bay lên trời xanh, như trong mơ, như làn gió.
Lúc này, từ gian phòng phía đông, nơi quần chúng sợ vỡ mật mỗi khi nhắc đến, hai tên công sai dẫn Tôn Bính thân hình cao lớn, mặt sắt đen sì, vào sân. Mặt Tôn Bính hơi bị phù, trên cổ có mấy vết thương màu đỏ, nhưng tinh thần thì rất ổn, hình như ông đang tự động viên. Khi ông đứng sánh vai với quan huyện, dân chúng bất giác sinh lòng nể trọng ông. Dù rằng ăn mặc, khí sắc ông không bằng quan huyện, nhưng bộ râu trước ngực ông quả thực phi phàm. Râu ông hình như rậm hơn, hơi rối và không mượt như râu quan huyện, dù vậy cũng đáng nể rồi! Vị hương thân gầy nh nói nhỏ với vị béo:
– Người này khí chất hiên ngang, mặt mày rạng rỡ, quyết không phải phường xướng ca vô loài.
– Có gì ghê gớm đâu, chẳng qua chỉ là anh kép hát Miêu Xoang! – Ông béo dè bỉu.
Viên thơ lại chủ trì cuộc đọ râu đứng lên, dọn giọng khàn khàn của con nghiện, nói:
– Thưa các vị hương thân, phụ lão và bà con, lý do cuộc đọ râu hôm nay là, tên cứng đầu Tôn Bính nói năng vô đạo, xúc phạm tri huyện đại nhân. Tôn Bính tội nặng, lẽ ra cứ pháp luật mà trị, nhưng niệm tình mới phạm lần đầu, nên khoan hồng. Để Tôn Bính tâm phục khẩu phục, quan huyện đặc cách phê chuẩn lời thỉnh cầu của hắn, đọ râu công khai với hắn. Nếu Tôn Bính thắng, ông lớn tha cho tội xúc phạm ngài; nếu ông lớn thắng, Tôn Bính phải tự vặt râu và không được nuôi lại. Tôn Bính, có phải vậy không?
– Đúng vậy – Tôn Bính ngẩng đầu lên – Cám ơn ông lớn đã khoan hồng độ lượng!
Viên thơ lại hình sự xin ý kiến Tiền đại nhân, đại nhân khẽ gật đầu ra hiệu bắt đầu.
– Đọ râu bắt đầu! – Viên hình sự hô to.
Chỉ thấy Tôn Bính cởi phắt áo ngoài, hai vai đầy những lằn roi, cuốn đuôi sam lên đỉnh đầu, xiết chặt dây lưng, đá chân, vươn vai, vận toàn bộ khí lực vào cằm dưới. Quả nhiên, như có ma thuật, râu ông rung lên lạo xạo một hồi, sau đó sợi nào sợi ấy cứng như dây thép, thẳng tưng! Rồi ông vươn cằm, thẳng lưng, hạ thấp người, nhúng bộ râu vào nước.
Ông lớn Tiền không hề làm một động tác phô trương thanh thế. Khi Tôn Bính vận khí, ông đứng bên mỉm cười, tay phe phẩy quạt giấy. Vẻ nho nhã của quan huyện khiến mọi người thán phục, đồng thời sinh phản cảm đối với Tôn Bính, cho rằng ông ta vửa giả tạo vừa khó coi, mang đậm phong cách của anh mãi võ bán thuốc cao. Khi Tôn Bính nhúng râu vào nước, ông lớn Tiền cụp chiếc quạt giấy lại, cất trong ống tay áo rộng thùng thình. Rồi ông hai tay nâng râu đưa ra phía trước rũ một cái, quẳng đi cái vẻ phong lưu khoáng đạt suýt làm mất mạng Tôn Mi Nương. Ông lớn cũng vươn cằm ra, thẳng lưng hạ thấp người, nhúng bộ râu vào nước.
Mọi người kiễng chân, rướn cổ, trố mắt nhìn vào thùng nước. Nhưng hầu hết không nhìn thấy gì. Họ chỉ thấy nụ cười thanh thản của ông lớn và bộ mặt tím tái của Tôn Bính. Những người đứng gần nhất thực ra cũng không nhìn thấy bộ râu trong nước như thế nào. Nắng chói quá, mà thùng thì màu sẫm!
Viên thơ lại làm trọng tài cùng cới Cử nhân Đan đi đi lại lại giữa hai thùng nước, so sánh nhiều lượt, vui mừng ra mặt. Để thuyết phục đám đông, viên hình sự cao giọng đề nghị:
– Có ai muốn xem, xin mời lên!
Tôn Mi Nương bước qua chiếc ghế băng, chỉ mấy bước đã lướt tới bên quan lớn. Nàng cúi xuống, bày ngay trước mắt là gốc đuôi sam to dày, rãnh sống lưng rất sâu, vànnh tai trắng trẻo của ông lớn. Nàng cảm thấy môi nóng ran, sự thèm muốn như con trùng nhỏ, cứ nhè trái tim mà cắn! Nàng những muốn cúi xuống hôn khắp người ông, không chừa một chỗ nào, bằng cặp môi mềm mại, nhưng không dám. Nàng cảm thấy một tình cảm còn sâu sắc hơn cả nỗi đau, những giọt nước mắt to tướng rơi trên cổ ông, cái cổ đầy đặn và mạnh mẽ. Nàng ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ từ thùng nước bay lên. Nàng trông thấy râu của ông lớn, từng sợi từng sợi cắm thẳng trong nước như bộ rễ của loài thủy sinh. Nàng thực sự không muốn xa thùng nước của ông lớn, nhưng viên hình sự và cử nhân Đan giục nàng chuyển sang thùng của cha nàng. Nàng cũng thấy râu của cha nàng cắm thẳng trong nước, cũng như bộ rễ của loài thủy sinh. Viên hình sự chỉ mấy sợi muối tiêu nổi trên mặt nước, nói:
– Chị Hai, chị trông rõ rồi chư? Chị cứ công bằng mà nói với mọi người! Bọn ta nói thì cho qua, lời chị nói thì ghi nhận. Chị nói đi, ai thắng, ai thua?
Mi Nương do dự trong một thoáng, từ khuôn mặt đỏ lựng và cặp mắt như ứa máu của cha, nàng nhìn thấy sự kỳ vọng của cha đối với nàng. Nhưng khi nhìn sang bên, gặp cặp mắt đa tình của ông lớn, nàng cảm thấy như có gì dính chặt môi lại, không nói nên lời. Viên hình sự và cử nhân Đan lại giục, nàng nói như khóc:
– Ông lớn thắng, cha tui thua!…
Hai mái đầu lập tức ngẩng lên, hai bộ râu đẫm nước được đưa ra ngoài thùng. Họ rũ râu, những hạt nước bắn tung tóe. Hai đối thủ nhìn nhau chằm chằm. Tôn Bính mắt trợn trừng, thở hồng hộc; ông lớn nét mặt tươi cười, ung dung thanh thản.
– Tôn Bính, ngươi còn nói gì không? – Ông lớn tươi cười hỏi.
Tôn Bính môi run bần bật, không nói gì.
– Như đã cam kết, Tôn Bính, ngươi tự vặt râu mình đi!
– Tôn Bính ơi Tôn Bính, nhà ngươi nhớ chưa? Còn nói bậy nữa thôi? – Tôn Bính hai tay nâng râu, ngửa mặt lên trời than thở – Thôi thôi, vứt bỏ cái của nợ này đi! Rồi, ông giật đứt một nắm râu vứt xuống đất, những giọt máu đào rỉ trên cằm. Ông lại túm một nắm định giật, thì Mi Nương quì sụp dưới chân ông lớn, nước mắt lưng tròng. Sắc mặt nàng kiều diễm như hoa đào, thật đáng yêu. Nàng ngẩng mặt nhìn ông lớn, nũng nịu:
– Ông lớn hãy tha cho cha tui!
Quan huyện nheo mắt, sắc mặt lộ vẻ như ngạc nhiên, lại như vui mừng, nhưng rõ nhất là cảm động. Môi ông mấp máy như nói, như không:
– Thì ra là Mi Nương…
– Đứng dậy, con gái! – Một giọt nước mắt rỉ ra từ khoé mắt Tôn Bính, ông nói nhỏ – không nên cầu xin người ta…
Ông lớn sững người, rồi cười sảng khoái. Dứt tiếng cười, ông nói:
– Các người cho rằng bản quan định vặt hết râu của Tôn Bính hay sao? Hôm nay đọ râu hắn thua, nhưng quả là hắn có bộ râu hiếm có trong thiên hạ. Bản quan không nỡ để hắn vặt trụi cả bộ râu! Bản quan đọ râu với hắn, một là cho hắn bớt ngông cuồng, hai là để mua vui cho các vị. Tôn Bính, bản quan tha tội cho nhà ngươi, cho ngươi giữ phần râu còn lại để còn đi hát.
Tôn Bính dập đầu lạy tạ.
Quần chúng cảm thán không nguôi.
Hương thân bàn tán ồn ào.
Mi Nương quì dưới đất, nhìn không chớp khuôn mặt mê hồn của ông lớn.
– Con gái nhà họ Tôn, vì việc công mà gác tình riêng, là đàn bà mà chí khí đàn ông, thực là hiếm thấy! – Ông quay lại nói với viên thơ lại phụ trách hậu cần – Thưởng cho cô ta một lạng bạc!
19
Vầng trăng tròn vành vạnh treo giữa bầu trời như một người đẹp không mảnh vải che thân. Tiếng mõ canh ba vừa điểm, huyện thành im ắng. Gió mát đêm hè như tấm voan rộng mênh mông điểm xuyết bằng những chòm sao, trùm lên trời đất, đem theo mùi cây cỏ, cua cá, côn trùng. Aùnh trăng bàng bạc, soi tỏ Tôn Mi Nương đang đi dạo trong sân. Nàng cũng không mảnh vải che thân, lồ lộ dưới ánh trăng. Aùnh trăng như nước, nàng như con cá lớn màu nhũ bạc. Đây là một đóa hoa nở rộ, một quả đã chín tới, một cơ thể khỏe đẹp. Từ đầu đến chân, trừ bàn chân to, không một khiếm khuyết. Da mịn màng, chỉ một cái sẹo duy nhất khuất dưới mái tóc sau gáy.
Cái sẹo là vết cắn của một con lừa mõm nhọn. Khi đó, nàng vừa biết bò, nàng không biết mẹ nàng đã nuốt a phiến, nằm chết vắt ngang giường. Nàng bò lên mình mẹ ăn mặc chỉnh tề, như bò trên triền núi đẹp. Nàng đói muốn bú tí, không bú được, nàng khóc. Sau đó nàng ngã xuống đất, khóc rất to, không ai hỏi một câu. Nàng bò ra ngoài cửa. Nàng ngửi thấy mùi hoi của sữa. Nàng trông thấy con lừa con đang bú sữa. Con lừa mẹ tính nết dữ dằn, bị gia chủ cột vào cây liễu. Nàng bò đến bên con lừa mẹ, định bú tranh với lừa con. Lừa mẹ nổi giận, há miệng đớp vào gáy nàng, lắc mấy cái rồi lẳng nàng ra xa. Máu bê bết khắp người, nàng khóc thét kinh động hàng xóm. Bà hàng xóm tốt bụng bế nàng lên, rắc vôi bột vào vết thương sau gáy để cầm máu. Vết thương rất nặng, mọi người tin chắc nàng sẽ chết. Người cha phóng đãng cũng tin chắc nàng không qua khỏi. Vậy mà nàng sống. Mười bốn tuổi trở về trước nàng rất gầy, cái sẹo trên đầu bóng loáng. Nàng cùng gánh hát của cha đi khắp đó đây, nàng sắm vai trẻ nhỏ, vai tiểu yêu, vai mèo con. Năm mười lăm tuổi, nàng như cây lúa đói nước gặp cơn mưa rào, lớn nhanh như thổi. Năm mười sáu tuổi, tóc dài và mượt như cây thùy liễu chặt ngọn, những cành non mềm mại túa ra, rậm và khỏe khoắn. Suối tóc nhanh chóng che khuất cái sẹo sau gáy. Năm mười bảy tuổi, mỡ tích tụ nhiều dưới da, lúc này người ta mới biết nàng là con gái, còn trước đó, bởi chưng nàng có bàn chân to và mái đầu ngắn ngủn, ai cũng tưởng nàng là con trai. Năm mười tám tuổi, nàng trở thành cô gái đẹp nhất vùng Đông Bắc Cao Mật. Mọi người tiếc cho nàng: “Cô gái này nếu chân không to, thì vua phải tuyển làm quý phi!”.
Vì cái khiếm khuyết chân to, hai mươi tuổi, nàng đã trở thành gái già, không lấy được chồng. Về sau, Tôn Mi Nương mặt hoa da phấn đành hạ mình lấy Triệu Tiểu Giáp con nhà đồ tể ở cửa Đông huyện thành. Lúc Mi Nương về làm dâu, mẹ Giáp Con chưa chết. Người đàn bà bó chân này ghét cay ghét đắng cô con dâu chân to, nghĩ ra chuyện quái đản là dùng dao gọt bớt chân cho Mi Nương. Giáp Con không dám gọt, mẹ chồng đích thân ra tay. Mi Nương từ nhỏ sống tự do trong gánh hát, không được dạy bảo về tam tòng tứ đức, chỉ biết đao thương cung kiếm nhào lộn tối ngày, đại để còn là cô gái hoang dã, đi làm dâu phải nín phải nhịn, tức lộn ruột. Mẹ chồng lạch bạch đôi chân bó, cầm dao xông tới. Lửa giận cố nén lâu ngày được dịp bùng lên. Nàng tung một cú đá thể hiện đầy đủ ưu thế của bàn chân to và công phu luyện tập ở gánh hát. Mẹ chồng vốn ngật ngưỡng vì chân bó, trụ sao nổi một phi cước? Bà ngã lăn quay, Mi Nương xông tới, cưỡi lên mình mẹ chồng, đấm lia lịa như Võ Tòng đả hổ, mẹ chồng kêu trời kêu đất, vãi đái ra quần. Sau trận đòn ấy, bà già mang hận sinh bệnh, chẳng bao lâu thì chết. Từ đó, Tôn Mi Nương được giải phóng, trở thành gia trưởng thực sự. Nàng mở một quán rượu ở phố bên, bán hoàng tửu và thịt chó luộc. Chồng đần, vợ lẳng lơ làm chủ quán, khách khứa dập dìu. Những tay ăn chơi phóng đãng trong thành đều muốn ăn thịt ngỗng trời, nhưng chưa anh nào thỏa nguyện. Tôn Mi Nương có ba biệt hiệu: Nàng Tiên Chân To, Người Đẹp Một Nửa, Tây Thi Thịt Cầy.
Mười ngày sau cuộc đọ râu, người ta vẫn chưa thôi bàn tán về dung mạo phong tình và tấm lòng độ lượng của quan huyện, lại đã tới ngày treo đèn kết hoa xem mặt phu nhân.
Theo lệ, hàng năm đến năm mười tám tháng Tư, người ta mở cửa sảnh Ba là nơi thâm nghiêm kín cổng cao tường, đừng nói gì dân chúng, mà ngay cả nha dịch cũng không được tùy tiện ra vào, cho phụ nữ và trẻ con vào xem một ngày. Trong ngày ấy, phu nhân quan huyện, có quan ông ngồi cùng, từ sáng tinh mơ đã quần là áo lượt, ngồi dưới mái hiên sảnh Ba, mỉm cười luôn miệng, tiếp quần chúng. Đây là một cử chỉ gần dân, cũng là một lần tôn vinh lẽ đời phu quí phụ vinh.
Phong độ quan huyện thì mọi người đã được trông thấy; hoàn cảnh xuất thân và học vấn của phu nhân thì đã lan truyền tới tai đám phụ nữ. Họ nóng lòng chờ đợi ngày này. Họ đều muốn biết, quan huyện đẹp như người nhà trời, đã lấy một người đàn bà như thế nào? Những lời xì xầm như tơ nắng bay khắp chốn, có người nói, phu nhân mặt tươi như hoa, khuynh quốc khuynh thành; có người lại bảo, phu nhân mặt rỗ chằng rỗ chịt, tướng mạo như quỉ dạ xoa. Hai lời đồn trái ngược, khiến đán phụ nữ ngày càng tò mò. Các cô gái trẻ thì cho rằng, phu nhân quan huyện đương nhiên phải là người đẹp như hoa như ngọc; những cô lớn tuổi hơn, bằng vào kinh nghiệm phong phú của mình, lại cho rằng trên đời không bao giờ có sự hoàn mĩ. Họ rất tin câu ngạn ngữ “Chồng khôn vợ đụt, chồng xấu vợ xinh”. Họ lấy trường hợp quan huyện tiền nhiệm, chồng bẩn tướng, vợ hoa khôi, để chứng minh cho lập luận của mình. Nhưng đám thanh nữ, đặc biệt là các cô chưa chồng vẫn rất muốn cho rằng, phu nhân quan huyện phải là một tiên nữ giáng trần!
Tôn Mi Nương mong cái ngày này hơn tất cả những người khác. Nàng đã hai lần trông thấy mặt quan huyện. Lần thứ nhất là vào một đêm mưa phùn lất phất đầu xuân, nàng đuổi đánh con mèo ăn vụng cá, đụng phải kiệu quan huyện, dẫn đến chuyện quan huyện vào quán của nàng. Qua ánh nến sáng trưng, nàng thấy quan huyện tướng mạo đường hoàng, cử chỉ khoan thai như từ trong bức họa bước ra. Ông lớn nói nằng hòa nhã, thái độ dịu dàng, tuy chuyện vãn đôi câu nhưng ông đã tỏ ra thân tình khác thường. Người đàn ông nay so với người chồng giết chó mổ lợn của nàng… không, không thể so sánh như thế! Kỳ thực, trong trái tim nàng khi ấy hoàn toàn không có hình ảnh người chồng Giáp Con. Nàng cảm thấy bước chân nhẹ tênh, tim đập như trống làng, mặt nóng bừng. Nàng nói quá nhiều những câu xã giao và chân tay cứ quýnh lên vì săn đón để che giấu sự hoảng loạn của con tim, nhưng tay áo vẫn gạt vỡ bát rượu; chân vẫn va phải ghế băng. Tuy ông lớn phải làm ra vẻ nghiêm trang trước mặt mọi người, nhưng từ giọng ho một cách không tự nhiên và cặp mắt long lanh của ông lớn, nàng cảm nhận được tình cảm nảy sinh trong lòng ông. Lần gặp thứ hai là hôm đọ râu, nàng đảm nhiệm vai trò trọng tài có tiếng nói quyết định thắng thua. Nàng không những nhìn rõ hơn dung mạo, mà còn ngửi thấy mùi hương trên người ông lớn. Bím tóc đen mượt và cái gáy phẳng phiu của ông lớn kề sát làn môi nàng, ôi chao, gần ơi là gần… Nàng nhớ nước mắt mình rơi trên cổ ông lớn, chắc chắn là ông có biết nước mắt mình đã rơi trên cổ ông… Ông lớn thưởng cho nàng một lượng bạc để ghi nhận thái độ vô tư của nàng. Khi nàng đến lĩnh bạc, viên thơ lại có bộ râu dê nhìn nàng từ đầu đến chân bằng cặp mắt khác thường, ánh mắt dừng lại rất lâu trên hai bàn chân của nàng, khiến nàng đang từ mây xanh rơi xuống vực thẳm. Qua ánh mắt, nàng đoán ra tâm trạng của viên thơ lại. Nàng kêu thầm: Trời ơi, đất ơi, mẹ ơi, cha ơi, con tàn đời vì đôi chân này! Nếu mẹ chồng có thể gọt bé chân nàng bằng dao chọc tiết lợn, thì cứ để bà gọt, đau mấy nàng cũng chịu được! Nếu gọt bé chân mà phải chết sớm mười năm, nàng tình nguyện chết sớm mười hai năm! Nghĩ đến đây, nàng hận cha không để đâu cho hết! Cha ơi, ông đã hại mẹ tui lại hại cả tui, ông chỉ biết có ong bướm mà không lo toan gì cho con gái của ông, ông chỉ biết nuôi tui lớn lên mà không mướn người bó chân cho tui, cha ơi là cha!… Dù rằng bộ râu của ông có đẹp hơn râu của quan huyện thì tui cũng phán cho ông thua, huống hồ râu ông không đẹp bằng râu quan huyện!
Tôn Mi Nương cầm lượng bạc được thưởng về nhà, nhớ lại ánh mắt tình tứ của ông lớn mà lòng rạo rực, nhớ lại ánh mắt mà như lột da người ta của viên thơ lại mà lòng lạnh như băng! Ngày xem mặt phu nhân đã tới gần, đám phụ nữ trong thành bận rộn mua sắm phấn son, may quần may áo, làm như chuẩn bị về nhà chồng, nhưng Tôn Mi Nương thì vẫn bàng hoàng, chưa quyết định nên đi hay không? Dù rằng, chỉ gặp nhau mới có hai lần, ông lớn chưa hề nói nửa câu đường mật, nhưng nàng khăng khăng cho rằng, nàng và ông lớn đã cảm thông, sớm muộn hai người sẽ là một cặp uyên ương. Khi mọi người ra sức mà đoán về dung mạo của phu nhân, và vì thế mà bình luận không dứt, thì mặt nàng đỏ bừng, làm như họ bàn tán về người trong nhà nàng. Nàng quả thực cũng không rõ ràng hi vọng phu nhân đẹp như tiên, hay xấu như quỉ dạ soa? Nếu là đẹp như tiên thì nàng đừng hòng tơ tưởng! Nếu xấu như quỉ dạ soa thì buồn cho ông lớn! Nàng mong, đồng thời lại sợ cái ngày gặp mặt phu nhân quan huyện.
Gà gáy một, nàng đã tỉnh giấc, đợi mãi trời mới sáng. Chẳng còn bụng dạ nào thổi cơm, chẳng còn bụng dạ nào trang điểm. Nàng đi đi lại lại từ trong nhà ra ngoài sân, từ ngoài sân vào trong nhà, ngay cả chàng Giáp Con ngốc nghếch chỉ biết giết chó mổ lợn, cũng phát hiện nàng không bình thường. Giáp Con hỏi:
– Vợ ơi, vợ làm sao thế? Ngứa bàn chân hay sao mà đi ra đi vào mãi thế? Nếu ngứa chân thì để tớ lấy xơ mướp cọ là hết ngứa.
Thế nào là ngứa bàn chân? Trong bụng bồn chồn, không đi lại không chịu được! Nàng dấm dẳn nạt nộ Giáp Con, rồi ngắt một bông hoa lựu đỏ rực trên cây lựu bên bờ giếng, thầm khấn: Nếu là chẵn thì đi gặp phu nhân, nếu là lẻ thì không đi và cái tình với ông lớn cũng hết.
Nàng rứt từng cánh hoa, một cánh hai cánh ba cánh… mười chín cánh. Số lẻ. Trong lòng bỗng trở nên băng giá, tình cảm suy sụp. Không tính, vừa rồi mình không thành tâm khi khấn, vậy lần này không tính! Nàng lại ngắt một bông thật to, nâng bằng hai tay, nhắm mắt khấn thầm: Lạy thần trên trời, lạy tiên dưới đất, hãy chỉ bảo cho tui… Rồi, rất trịnh trọng nàng ngắt từng cánh hoa, một cánh hai cánh ba cánh… hai mươi bảy cánh, số lẻ. Nàng vò nát những cánh hoa ném xuống đất, đầu gục trước ngực. Giáp Con muốn lấy lòng, thận trọng hỏi:
– Vợ ơi, vợ định cài hoa phải không? Để tớ ngắt cho.
– Xéo, đừng quấy rầy người ta! – Nàng giận dữ gào lên, quay vào trong nhà nằm vật xuống giường, kéo chăn trùm kín đầu.
Sau khi khóc một trận, trong lòng thanh thản hơn. Nàng rửa mặt, chải đầu, lôi từ trong hòm chiếc đế giầy mới đột được một nửa, ngồi xếp bằng tròn trên giường, cố nén những ý tưởng bất chính, lúi húi đột tiếp, mặc cho tiếng nói cười lao xao ngoài đường của đám phụ nữ. Giáp Con chạy tới, hỏi:
– Vợ ơi, người ta đi xem mặt phu nhân, vợ có đi không?
Thoắt cái, lòng nàng lại rối như tơ vò.
– Vợ ơi, nghe nói người ta tung trái cây, vợ dẫn tớ đi cướp, được không?
Nàng thở dài, lên giọng mẹ dạy con: Giáp Con, anh đâu còn là trẻ con? Xem mặt phu nhân là công việc của phụ nữ, đàn ông đến đó làm gì? Chẳng lẽ anh không sợ đám công sai lấy gậy đập cho nát đít sao?
– Tớ muốn cướp trái cây.
– Thích ăn trái cây thì ra phố mà mua.
– Mua không ngon bằng cướp!
Tiếng cười của đám phụ nữ cuộn vào nhà như một quả cầu lửa, khiến nàng đau rát. Nàng nghiến răng ấn mạnh chiếc dùi vào đế giày. Chiếc dũi gãy. Nàng quẳng dùi và đế giày, thân mình cũng theo đà ngã sấp trên giường. Tâm trạng rối bời, nàng nắm tay đấm vào thành giường.
– Vợ ơi vợ, vợ lại đầy bụng phải không? – Giáp Con có vẻ sợ, hỏi.
Nàng nghiến răng nghiến lợi, gào lên:
– Ta phải đi, phải đi để xem mặt mũi phu nhân nhà ông thế nào?
Nàng tung mình nhảy xuống giường, quên luôn cả chuyện bói hoa lúc nãy, làm như chưa bao giờ do dự trong chuyện đi xem mặt phu nhân quan huyện. Nàng múc nước rửa mặt lần nữa, ngồi trang điểm trước gương. Trong gương, nàng má phấn môi son, dù mắt hơi mọng một tí, nhưng vẫn hiển nhiên là người đẹp. Nàng lấy trong hòm số quần áo thực ra đã chuẩn bị từ trước, thay ngay trước mặt Giáp Con. Anh chàng trông thấy bộ ngực nàng, liền đòi sờ ti. Nàng dỗ như dỗ trẻ: Giáp Con ngoan nào, cứ ở nhà, tui đi cướp trái cây về cho mà ăn!
Tôn Mi Nương trên mặc áo chẽn đỏ, dưới mặc quần xanh lục, bên ngoài, lồng chiếc váy cũng màu xanh lục, vậy là một đóa hoa mào gà rực rỡ đi trên phố. Nắng đẹp, gió nam ấm áp đưa tới hương thơm lúa tiểu mạch sắp chín. Gió nam vuốt ve, tiết xuân ấm áp, đúng là thời tiết của những phụ nữ đa tình! Nàng sốt ruột, chỉ tiếc không thể một bước tới huyện lị, chiếc váy quẩn chân, khiến nàng không thể đi nhanh. Sốt ruột nên sợ bước chậm, sốt ruột nên sợ đường dài. Nàng không ngần ngại xốc cao váy để bước nhanh, vượt lên đám phụ nữ bó chân lạch bạch đằng sau.
– Chị Hai Triệu, vội gì thế?
– Chị Hai Triệu, đi chữa cháy đấy à?
Nàng không trả lời, cắt đường đi tắt từ ngõ nhà họ Đới sang cổng bên của huyện. Nửa cây mận nhà họ Đới vươn qua tường nở đầy hoa. Hương thơm thoang thoảng, tiếng ong vo ve, chim yến thủ thỉ. Nàng giơ tay ngắt một bông hoa mận cài lên mái tóc. Con chó nhà họ Đới thính tai, sủa gâu gâu. Nàng phủi bụi tuy rằng không có bụi, thả váy xuống, bước vào huyện nha. Tên lính lệ nhìn nàng gật đầu, nàng mỉm cười đáp lại. Chỉ một thoáng, nàng đã mồ hôi đầm đìa trước sảnh Ba. Đứng gác sảnh Ba là một anh chàng mày rậm mắt sâu, nói giọng tỉnh ngoài. Mi Nương đã từng trông thấy anh ta hôm đọ râu, biết anh là người thân tín của quan huyện. Người thanh niên gật đầu chào, nàng vẫn dùng nụ cười mỉm để đáp lại. Trên sân chật kín phụ nữ, bọn trẻ con len lỏi giữa đám người. Nàng lách mình, rẽ bằng tay mấy lần là đã lên tận cùng phía trước. Nàng trông thấy dưới mái đao cong vắt của sảnh Ba, kê chiếc kỷ hình chữ nhật, phía sau kỷ là hai chiếc ghế bày song song, ghế bên trái quan huyện ngồi ngay ngắn, ghế bên phải phu nhân quan huyện ngồi ngay ngắn. Phu nhân đội mũ phượng, lưng thẳng đuỗn, chiếc áo đỏ như ráng chiều rực lên dưới nắng. Phu nhân che mặt bằng một tấm mạng mỏng, chỉ lờ mờ khuôn mặt, không thể nhìn rõ dung nhanh. Mi Nương lập tức cảm thấy nhẹ nhõm. Lúc này, nàng đã hiểu, nàng sợ nhất là phu nhân mặt hoa da phấn. Phu nhân đã không chịu lộ diện cho mọi người trông thấy, chứng tỏ bộ mặt phu nhân không đẹp. Tự nhiên Mi Nương đứng thẳng, trong lòng bùng lên ngọn lửa hy vọng. Lúc này, nàng mới ngửi thấy mùi hoa đinh thơm gắt. Nàng trông thấy hai bên góc sân, hai cây tử đinh hương cao to, hoa nở trắng một khoảng trời. Nàng còn trông thấy từng dãy tổ yến dưới mái hiên sảnh Ba, đàn yến bận rộn tíu tít bay ra bay vào, yến con há miệng màu vàng kêu chiếp chiếp. Truyền rằng, chim yến không làm tổ nơi công đường, mà chọn mái nhà của những nhà nông lành hiền. Nay từng đàn chim yến làm tổ ở huyện lị là điềm lành, là hồng phúc do quan huyện đem lại, chứ không phải do quan bà che mặt, chắc hẳn thế! Nàng chuyển ánh mắt từ phu nhân sang quan huyện, hai luồng ánh mắt gặp nhau, nàng cảm thấy sự ái mộ trong cái nhìn của ông lớn, vậy là lòng nàng như mê như say. Ông lớn ơi ông lớn, không nghĩ rằng một ông tiên lại lấy một phu nhân không dám để người ta xem mặt! Mặt bà ấy rỗ chăng? Bà ấy mắt hiếng mũi tẹt chăng? Bà ấy có hàm răng đen chăng? Ông lớn, thật buồn cho ông… Mi Nương đang nghĩ ngợi lung tung chợt nghe phu nhân ho lên một tiếng. Quan huyện chuyển luồng mắt theo tiếng ho, rồi nghoảnh sang nói với phu nhân điều gì đó. Một a hoàn tóc rẽ giữa, bê một sọt táo đỏ và lạc củ, nắm từng vốc tung về phía dân chúng. Bọn trẻ tranh cướp nhau, gây nên cảnh hỗn loạn. Mi Nương trông thấy phu nhân nhân hình như vô ý nhếch váy lên một cái, lộ ra hai gót sen vàng nhòn nhọn. Đám người đứng sau nàng ồ lên tán thưởng. Bàn chân phu nhân quả là đẹp, nàng Mi Nương chân to chỉ muốn độn thổ. Tuy đã có váy dài che khuất, nhưng nàng nghĩ rằng phu nhân đã biết chân nàng to, chẳng những biết chân nàng to, mà còn biết nàng si mê quan huyện. Phu nhân lộ hai gót sen vàng là để làm nhục nàng, giáng cho nàng một đòn. Nàng không định xem không muốn xem, nhưng hai mắt cứ dán vào bàn chân nhỏ bé của phu nhân. Bàn chân của phu nhân cong cong như củ ấu. Giày của phu nhân thật đẹp, đoạn xanh thêu hoa đỏ. Bàn chân của phu nhân như có phép màu, Mi Nương nhà họ Tôn đầu hàng ngay lập tức! Nàng cảm thấy hai ánh mắt diễu cợt xuyên qua tấm mạng, nhìn vào mặt nàng. Không, không phải thế, cái nhìn như xuyên thủng vậy, soi dọi đôi bàn chân nàng. Mi Nương hình như cảm thấy phu nhân khẽ nhếch môi, nụ cười cao ngạo trên khuôn mặt. Mi Nương biết nàng đã thua, thua thảm hại. Khuôn mặt nương nương mà đôi chân con ở! Nàng hốt hoảng rút lui, sau lưng hình như có tiếng cười nhạo. Lúc này, nàng mới phát hiện ra mình tác hẳn lên phía trước, độc diễn trước mặt ông lớn và phu nhân. Càng thấy xấu hổ, càng luốn cuống, chân giẫm phải váy, váy rách toang, nàng ngã chổng bốn vó.
Về sau, nàng nhiều lần nhớ lại, khi nàng ngã, ông lớn đã đứng phắt dậy. Nàng quả quyết sắc mặt ông lớn tỏ ra thương cảm và quan tâm đến nàng. Chỉ có những người chung trái tim khối óc mới biểu hiện như thế. Nàng còn quả quyết rằng, nàng tận mắt trông thấy, khi ông lớn định bước qua cái kỷ chạy tới nâng nàng dậy, phu nhân đã đá rất mạnh vào bắp chân ông lớn. Ông lớn sững người, rồi từ từ ngồi xuống. Khi phu nhân làm động tác trên với ông lớn, bà vẫn ngồi thẳng như không hề có chuyện xảy ra.
Mi Nương đứng phắt dậy trong tiếng cười diễu của đám phụ nữ.
Nàng sửa lại váy, không còn thì giờ chú ý đôi bàn chân to vừa nãy đã để lộ trước mặt ông lớn và phu nhân, quay người len vào đám đông. Nàng cắn chặt môi cố ghìm tiếng khóc, nhưng nước mắt thì tuôn ra như suối. Ra khỏi đám người, vẫn nghe những người đàn bà bàn tán sau lưng, người cười khúc khích, người lại bắt đầu tán dương đôi chân nhỏ của phu nhân. Nàng hiểu, phu nhân làm như vô ý, thực ra là cố ý phô bày cặp chân mình. Đúng là một đẹp che trăm xấu, phu nhân chưng ra một cặp chân đẹp, để người ta quên đi dung mạo của mình. Trước khi rời đám người, nàng lại nhìn ông lớn, và thật kỳ lạ, luồng mắt hai người lại gặp nhau. Nàng cảm thấy cái nhìn của ông lớn buồn rười rượi như là để an ủi nàng, cũng có thể là biểu thị sự đồng tình với nàng. Nàng lấy tay áo che mặt chạy khỏi sảnh Ba, vừa rẽ vào ngõ nhà họ Đới, nàng cất tiếng khóc thê thảm.
Mi Nương hớt hải trở về nhà, Giáp Con sán lại đòi trái cây. Nàng gạt Giáp Con sang một bên, bước vào trong buồng, nhào lên giường nằm khóc. Giáp Con đứng sau lưng, thấy nàng khóc cũng ồ ồ khóc theo. Nàng ngồi dậy, vớ lấy cái cán chổi quật vào chân mình. Giáp Con sợ quá, giữ chặt tay nàng lại. Nàng nhìn chằm chằm vào khuôn mặt vừa xấu vừa ngây ngô của Giáp Con, bảo: Giáp Con, anh lấy dao gọt bớt chân đi cho tui.
20
Cặp chân nhỏ của phu nhân như gáo nước lạnh giội lên đầu Mi Nương, nàng tỉnh ra được mấy ngày. Nhưng ba lần gặp ông lớn, đặc biệt là ánh mắt tình tứ của ông lớn, sự quan tâm của ông, với cặp chân nhỏ của phu nhân, mở đầu cho một cuộc phản kháng ngoan cường. Cặp chân nhỏ của phu nhân mờ đi như ảo ảnh, còn ánh mắt và khuôn mặt đẹp đẽ của ông lớn thì ngày càng rõ nét. Hình ảnh quan lớn Tiền đã choán hết trong đầu nàng. Nàng nhìn một cái cây, cây đó lắc lư rồi biến thành quan lớn Tiền. Nàng trông thấy cái đuôi chó, cái đuôi phe phẩy rồi biến thành cái đuôi sam của quan lớn Tiền. Nàng nhóm lửa ở bếp, trong ngọn lửa bập bùng có khuôn mặt tươi cười của quan lớn Tiền. Đi trên đường, nàng bỗng dưng đâm vào bức tường. Thái thịt, nàng cứa đứt ngón tay. Nàng để cho nồi đầy thịt chó cháy thành than mà không ngửi thấy mùi khét. Nàng nhìn vào cái gì, cái đó liền biến thành quan lớn Tiền. Nàng nhắm mắt liền thấy liền cảm thấy quan lớn Tiền đang đứng bên cạnh. Nàng có thể cảm thấy da buồn buồn vì râu của ông lớn cọ vào. Đêm nào nàng cũng mơ thấy ông lớn và nàng có quan hệ xác thịt. Trong giấc mơ, nàng hét toáng lên làm Giáp Con hoảng sợ lăn xuống đất. Sắc mặt nàng tiều tụy, người nà gầy đi trông thấy, nhưng cặp mắt thì sáng rực, đồng tử ươn ướt. Giọng nàng khàn đi một cách kỳ lạ. Nàng thường xuyên bật cười, tiếng cười trầm và rin rít mà chỉ những người đang bị lửa dục thiêu đốt con tim mới cười như thế. Nàng biết, nàng đã mắc bệnh tương tư nghiêm trọng. Nàng biết, tương tư là loại bệnh đáng sợ, người đàn bà mắc phải bệnh này chỉ còn cách chung chăn gối cùng người đàn ông mà mình tương tư, nếu không, huyết mạch sẽ cạn khô, sẽ mắc bệnh lao, thổ huyết mà chết. Nàng không thể ngồi yên trong nhà. Những việc trước đây lôi cuốn nàng, làm cho nàng thích thú, như kiếm tiền, thưởng hoa đều trở nên vô vị. Vẫn rượu ngon ấy, nhưng bây giờ miệng cảm thấy nhạt thếch. Vẫn hoa đẹp ấy, nhưng bây giờ mắt thấy nhợt nhạt. Nàng khoác làn trúc, trong làn có một đùi thịt cầy, ngày ba bận lượn trước nha môn. Nàng hy vọng gặp được ông lớn khi ông ra ngoài, không gặp được ông lớn thì trông thấy cỗ kiệu mui lợp nỉ xanh của ông lớn cũng được. Nhưng, y như con ba ba lặn xuống vực, không một dấu vết về ông lớn. quanh quẩn trước cổng, tiếng cười rin rít của nàng khiến đám lính gác vò đầu bứt tai. Nàng chỉ hận nỗi không thể ngó vào trong nhà mà hét thật to, những gì cố nén trong lòng tuôn ra cùng với tiếng hét, để ông lớn nghe thấy. Nhưng nàng chỉ dám lẩm bẩm:
– Ông thân yêu… gan ruột của tui… tui sắp chết vì nhớ ông đây! Ông làm ơn… hãy thương tui… Ông như quả đào tiên! Ôi sao mà thèm! Thoạt nhìn đã yêu! Ba sinh duyên nợ! Thèm ơi là thèm, thèm rõ dãi, quả chín trên cành cao, ẩn sâu trong kẽ lá, kẻ nô tài giương mắt đứng trông, ngày đêm đợi và mong! Tình yêu đơn phương không đã thèm, nước miếng chảy ướt mèm! Biết khi mô quả rụng, lay không rụng, ai người trèo lên.
Nàng cải biên lời tỏ tình nồng cháy thành điệu Si (tình) của Miêu Xoang, hát mãi không chán. Mặt đỏ bừng, mắt long lanh, như con thiêu thân múa lượn trước ánh đèn sáng chói. Đám lính thấy nàng rực lửa, định kiếm chác ở nàng nhưng lại sợ rách việc. Nàng quằn quại trong lửa đục, nàng giẫy giũa trong bể tình. Rồi, nàng thấy mình thổ huyết.
Sự kiện ho ra máu vạch một khoảng sáng trong đầu nàng. Người ta đường đường một tri huyện, một mệnh quan của triều đình, còn ngươi thì là gì? Con một anh kép hát, vợ một tên đồ tể, một phụ nữ không bó chân! Người ta là trời cao, ngươi là đất thấp, người ta là kỳ lân, ngươi là con chó hoang. Tình yêu đơn phương chắc chắn không đơm hoa kết trái. Nha ngươi cạn kiệt tâm huyết vì người ta, người ta đâu có biết? mà dù có biết, người ta chỉ cười khẩy, không ghi nhận cái tình của nhà ngươi! Nhà ngươi tự giày vò đến chết, ngươi chết là đáng lắm, chẳng ai thông cảm, chẳng ai hiểu ngươi, tất cả đều cười giễu, chửi rủa ngươi. Người ta cười ngươi không biết trời cao đất dày, cười ngươi không biết hai nhân ba là sáu! Người ta sẽ mắng ngươi là quân hoang tưởng, đũa mốc chòi mâm son, khỉ đòi hái mặt trăng, làn trúc đòi đựng nước, cóc muốn ăn thịt ngỗng trời! Tôn Mi Nương, hãy tỉnh lại đi, hãy yên phận đi, hãy quên quan lớn Tiền đi! Trăng sáng đẹp thật đấy, nhưng không thể lôi trăng vào giường. Quan lớn tuyệt diệu đấy, nhưng là người trên trời! Nàng thề sẽ quên quan lớn Tiền, ông đã khiến nàng thổ huyết. Nàng cấu vào đùi, châm kiam vào ngón tay, đấm vào đầu, nhưng quan lớn Tiền như một hồn ma, không sao rũ bỏ. Ông như bóng theo hình, gió thổi không tan, nước rửa không sạch, dao chém không đứt, lửa đốt không cháy! Nàng lắc đầu, tuyệt vọng mà khóc, rủa khẽ:
– Oan gia ôi oan gia, ông hãy tha cho tui… Ông hãy buông tui ra! Tui biết sai rồi, tui không dám nữa, chẳng lẽ ông nhất quyết bắt tui phải chết hay sao?
Để quên quan huyện Tiền Đinh, nàng hướng dẫn Giáp Con cùng nàng giao hoan. Nhưng Giáp Con không phải Tiền Đinh, đại hoàng không phải là nhân sâm! Giáp Con không phải thứ thuốc chữa được bệnh cho nàng. Đùa với Giáp Con xong, nỗi nhớ Tiền Đinh lại càng mãnh liệt, như lửa đổ thêm dầu. Nàng ra giếng múc nước, nhìn thấy dung nhan tiều tụy của nàng dưới giếng. Nàng cảm thấy đầu váng mắt hoa, lợm giọng buồn nôn. Trời ôi, lẽ nào thế là hết hay sao? Lẽ nào nửa nạc nửa mỡ thế này mà chết hay sao? Không, tui không muốn chết, tui phải sống!…
Cố làm ra vẻ phấn chấn, nàng xách chiếc đùi chó, hai xâu tiền đồng, rẽ quanh rẽ quẩn phố nhỏ ngõ hẹp, đến ngõ Thần tiên Cửa Nam, gõ cửa bà đồng Lã. Nàng đặt xâu tiền dính mỡ, chiếc đùi chó thơm phức lên bàn thờ Nàng Tiên Cáo. Trông thấy đùi chó, bà Lã khịt khịt mũi. Trông thấy xâu tiền, cặp mắt u buồn của bà Lã sáng lên. bà Lã thở dốc. Bà châm một cành kim hoa hít lấy hít để. Bà nói:
– Chị Hai, bệnh chị hơi nặng đấy!
Mi Nương quì dưới đất sụt sịt:
– Bà ơi, bà cứu con!
– Nói xem nào! bà Lã hít kim hoa, liếc nhìn Mi Nương, ý tứ sâu xa – Giấu cha giấu mẹ, không giấu được thầy thuốc! Con nói đi!
– Bà ơi, thực tình con không thể nói ra!
– Giấy thầy thuốc, không giấu được thần tiên!
– Bà ơi, con yêu một người… Người ấy đã hủy hoại con…
Bà Lã cười giảo hoạt:
– Dung mạo chị Hai như thế này mà sao không được như nguyện?
– Bà ơi, bà chưa biết người đó ấy thôi.
– Là ai? – Bà Lã nói – Chẳng lẽ là Cửu Động Thần tiên? Chẳng lẽ Tây thiên La hán?
– Bà ơi, người ấy không phải Cửu Động thần tiên, cũng không phải Tây thiên La Hán, người ấy là quan huyện Tiền Đinh!
Cặp mắt của bà Lã lại lóe sáng, tâm trạng bà vừa tò mò vừa phấn khích. Bà hỏi:
– Chị Hai muốn gì nào? Muốn già này làm phép tác thành cho chị ư?
– Không, không… – Nước mắt giàn giụa, nàng mãi mới nói được – Đất xa trời quá, không thể…
– Chị Hai, chuyện trai gái chị không hiểu đâu. Chỉ cần chị đừng tiếc công thờ phượng Nàng Tiên Cáo, thì dù là sắt đá, cũng khiến ông ta mắc câu!
– Bà ơi – Nàng bưng mặt, nước mắt chảy qua kẽ tay, vừa khóc vừa nói – Bà hóa phép cho con quên ông ta đi!
– Chị Hai, việc gì phải khổ như thế? – Bà Lã nói – Nếu thích ông ta thì sao không viên mãn công chuyện đi. Mọi chuyện trên đời, không gì vui thú bằng tình yêu trai gái! Chị Hai, chị đừng có lẩm cẩm!
– Chuyện có thể xong hay sao, hở bà?
– Lòng thành tất ứng!
– Con lòng thành.
– Vậy quì xuống!
Theo sự chỉ dẫn của bà Lã, Tôn Mi Nương cầm theo một khăn lụa trắng tinh, chạy ra đồng. Nàng vốn sợ rắn, nhưng giờ đây nàng lại mong gặp rắn. Hôm ấy, bà Lã bảo nàng quì trước linh vị Nàng Tiên Cáo, nhắm mắt mà khấn. Bà đồng lầm rầm đọc thần chú triệu hồn, rất nhanh, Nàng Tiên Cáo đã nhập vào bà. Bà Lã sau khi lên đồng, giọng the thé – giọng bé gái ba tuổi – Tiên Cáo bảo nàng ra đồng bắt một đôi rắn đang phủ nhau, bọc vào khăn lụa đem về. Đôi rắn giao phối xong, sẽ lưu lại một giọt máu trên khăn. Tiên Cáo bảo, cầm khăn này vẫy vẫy trước mặt người mình yêu, người ấy sẽ đi theo. Từ đó trở đi: linh hồn người ấy sẽ ngụ ở mình. Muốn người ấy quên mình, họa chăng là cầm dao giết bỏ.
Nàng cầm gậy trúc, chạy ra bãi cỏ cách xa huyện lỵ, sục vào những chỗ rậm, xông vào những nơi ẩm ướt. Lũ chim tò mò bay lượn, cất tiếng kêu trên đầu nàng. Đàn bướm bay lượn xung quanh nàng. Lòng nàng đang như bướm, bay lượn, bâng khuâng! Chân nàng như dẫm lên bông, ngả nghiêng, đứng không vững. Nàng đập trên cỏ, cào cào châu chấu, những con cuốc, thỏ đồng chạy tán loạn, duy chỉ có rắn là không thấy. Nàng muốn gặp nhưng lại sợ gặp rắn, trong lòng cực kỳ mâu thuẫn. Bỗng soạt một tiếng, con rắn lớn màu vàng rơm, từ bụi cỏ trườn ra, thè lưỡi một cái thật nhanh, làm nét mặt ngáo ộp với nàng. Con rắn thò thụt cái lưỡi màu đen, ánh mắt nham hiểm, khuôn mặt hình tam giác lạnh lùng cười ngạo. Một tiếng nổ bục trong đầu nàng, mắt tối sầm, không nhìn thấy gì trong một lúc. Trong lúc mơ màng, nàng nghe thấy một tiếng kêu run rẩy từ miệng nàng phát ra, nàng ngồi bệt xuống cỏ. Lúc trấn tĩnh lại, con rắn đã mất tăm. Mồ hôi ướt đẫm quần áo. Trống ngực đập thình thịch như có viên đá cuội gõ vào ngực. Nàng há miệng nôn ra một bụm máu.
Mình thật là ngốc, nàng nghĩ, sao mình lại tin những lời sằng bậy của bà đồng? Vì sao mình phải nhớ cái ông Tiền Đinh ấy? Tốt đẹp đến mấy cũng chỉ là con người chứ gì? Ông ta cũng cần ăn, uống, đi tiểu đó sao? Cho dù ông ấy có phủ phục trên người mình, chẳng vẫn cái trò đó sao? Ông ta khác Giáp Con cái gì? Mi Nương, ngươi đừng có lẩm cẩm! Nàng hình như nghe thấy tiếng nói nghiêm túc từ trên trời vọng xuống, trách móc nàng. Nàng ngửa mặt nhìn trời. Trời xanh trong không một gợn mây, từng đàn chim vừa bay vừa kêu lên vui vẻ. Tâm trạng nàng bắt đầu cởi mở, thanh thoát như bầu trời. Như ngủ mê chợt tỉnh, nàng thở dài đứng lên, phủi cỏ bám đít quần, sửa lại tóc, men theo con đường nhỏ đi về nhà.
Khi đi qua vùng đất trũng đầy nước, tâm trạng thảnh thơi của nàng lại biến đổi. Nàng trông thấy một cặp cò trắng đứng trong đầm, mặt nước phẳng như gương. Chúng không nhúc nhích, có lẽ chúng đứng ở đó đã một ngàn năm. Chim mái gác đầu lên lưng chim đực, chim đực ngoái đầu lại nhìn vào mắt chim mái. Cặp tình nhân này nhìn nhau mà không nói, im lặng tận hưởng giây phút ngọt ngào. Đột nhiên, có thể chúng đang đợi nàng để trình diễn một màn đặc biệt: chúng vươn cao cần cổ, giang rộng đôi cánh có lông vũ đen và trắng xen kẽ, rồi kêu lên lảnh lói, ra sức mà kêu để bầy tỏ nhiệt tình chào đón nàng. Chúng vừa kêu vừa ngoắc cổ vào nhau, cổ dài và linh hoạt như cổ rắn. Chàng ngoắc vào nàng, nàng ngoắc vào chàng, quay cuồng, xoắn xít, buộc chặt sợi dây tình! Xoắn nữa, xoắn nữa, như không bao giờ chặt, như không khi nào dừng. Rồi thì chúng cũng rời nhau ra, nhìn nhau âu yếm, chải lông cho nhau từ đầu đến chân, một cái cũng không bỏ sót… Màn trình diễn của hai con cò khiến Mi Nương ứa nước mắt. Nàng nằm sắp, tưới đẫm cỏ bằng nước mắt, vỗ mặt đất bằng nhịp đập của con tim. Nàng hết sức xúc động, cầu khẩn: Trời ơi, ông trời ơi! Ông hãy biến tui thành con cò, cũng biến ông lớn Tiền thành con cò! Người chia ra cao thấp sang hèn, chim chóc thì nhất loại bình đẳng. Ông trời hãy khiến cổ tui ngoắc vào cổ ông lớn, bện thành dây tơ hồng! Cho tui được thơm khắp người ông lớn. Tui cũng mong được ông lớn thơm khắp người tui. Tui chỉ muốn nuốt chửng ông, tui cũng mong được ông ăn thịt tui. Ông trời ơi, xin ông cho tui và ông lớn, cổ thì xoắn lấy nhau không bao giờ có thể gỡ ra, cánh thì giang ra như con công xòe đuôi, hạnh phúc là ở đấy, tình nghĩa là ở đấy!…
Khuôn mặt nóng bừng của nàng giụi nát đám cỏ, hai tay nàng thọc sâu trong bùn, nhổ bật rễ cỏ lên.
Nàng đứng lên, đi về phía hai con có với tâm trạng như mê như say. Nụ cười bừng sáng trên khuôn mặt còn dính màu vàng của đất và màu xanh của cỏ. Nàng chìa tay, chiếc khăn lụa phất phơ trong gió. Nàng chỉ muốn bay ngay về huyện. Nàng lẩm bẩm: Cò ơi, cho tui xin một giọt máu của cò, tui không tham, chỉ cần một giọt để tui thực hiện giấc mơ của tui. Cò ơi, tui là cò, cò là ông ấy, để ông ấy hiểu tấm lòng của tui, cũng là tấm lòng của cò. Để hai trái tim gắn bó không rời. Xin cò hãy san cho tui một phần hạnh phúc của cò, phần nhỏ thôi, tui không dám xin nhiều. Cò ơi, hãy thương tui – người đàn bà khô héo vì yêu này!
Hai con cò bỗng sã cánh bỏ chạy, hai chân dài một cách kỳ quặc, không rõ vụng về hay nhanh nhẹn. Bước chân chúng khuấy động mặt nước yên tĩnh, tạo nên những vòng tròn đuổi nhau. Chúng tích lũy sức mạnh trong khi chạy, càng chạy càng nhanh, nghe rõ tiếng chân chạy, những giọt nước li ti bắn lên. Cuối cùng, chân duỗi thẳng về phía sau, chúng cất cánh bay là là mặt nước rồi đậu xuống phía bên kia đầm, chỉ còn nhỏ như hai chấm trắng. Hai chân Mi Nương lún trong bùn, nàng đứng như thể đã ở đó hàng ngàn năm, càng lúc càng sâu, lún tới bẹn, cặp mông nóng hổi của nàng đã chạm nước bùn mát lạnh…
Giáp Con ở đâu chạy tới, lôi nàng ra khỏi vùng lầy.
Nàng ốm một trận thập tử nhất sinh. Khỏi ốm, vẫn không dứt được nỗi nhớ ông lớn Tiền. Bà đồng Lã lén đưa cho nàng một gói bột màu vàng nâu, giọng thông cảm:
– Con ơi, Nàng Tiên Cáo thương xót con, sai ta đem đến cho con gói bột tình này. Uống đi!
Nàng nhìn gói bột hỏi:
– Bột gì đây, hở bà?
– Uống đi rồi ta sẽ nói cho con rõ, nó trước mất thiêng.
Nàng đổ bột vào bát, đổ nước sôi hòa tan, bịt mũi để khỏi phải ngửi cái mùi khó chịu, nàng uống cạn.
– Này con – bà Lã hỏi – Có thật con muốn biết đó là bột gì phải không?
– Thật.
– Vậy ta cho con rõ – Bà Lã nói – Ta hay mềm lòng, không muốn một cô gái đẹp ngời ngợi như con bị tàn lụi, liền giở phép màu này ra. Nàng Tiên Cáo không đồng ý sử dụng phép này, nhưng Nàng không còn phép nào khác. Con trúng độc rất nặng. Đây là phương thuốc gia truyền của dòng họ ta, chỉ truyền cho con dâu, không truyền cho con gái. Nói thật, bột con vừa uống khi nãy là phân của người con đang yêu. Chính xác một trăm phần trăm, không phải của bỡn đâu. Khó khăn lắm mới lấy được đấy. Ta dúi cho Hồ Tư, người nấu bếp của quan huyện, ba xâu tiền. Hắn đánh cắp phân ông lớn trong nhà xí cho ta. Ta phơi khô tán nhỏ, trộn với đậu đại hoàng, toànn là những vị mạnh, trừ tâm hỏa. Phương thuốc này không được dùng bừa bãi. Nàng Tiên Cáo bảo, dùng tà pháp sẽ tổn thọ, nhưng quả thật ta thương con, chết sớm hai năm thì chết, không sao. Con ơi, uống thuốc này để con rõ một điều: Dù đàng hoàng như quan lớn Tiền thì phân vẫn thối!…
Bà Lã vừa nói xong, Tôn Mi Nương đã gập người mà nôn hết mật xanh đến mật vàng.
Sau trận đó, trái tim bị mỡ lợn làm cho lú lẫn của Mi Nương dần tỉnh ngộ. Nàng tuy vẫn vấn vương quan lớn Tiền, nhưng không còn chết đi sống lại nữa. Vết thương lòng tuy vẫn còn đau, nhưng đã kín miệng. Nàng ăn đã biết ngon, muốn vào miệng biết mặn, đường vào miệng biết ngọt. Nàng dần bình phục. Trải qua lễ rửa tội kinh hồn táng đởm, cái đẹp ở nàng bốt vẻ hoang dã, đã thuần hơn. Đêm đêm nàng vẫn ngủ không ngon, nhất là những đêm trăng sáng.
21
Ngày mồng hai tháng Ba năm 1900 tức mồng hai tháng Hai năm Canh Tý, Quang Tự năm thứ hai mươi sáu, tương truyền chấp long ngóc đầu dậy vào ngày này. Qua ngày mồng hai tháng Hai, xuân dương phát động, địa khí bắt đầu dâng lên, chỉ còn đợi ngày là đánh trâu ra đồng làm lễ hạ điền. Hôm ấy là phiên chợ trấn Mã Tang của làng Đông Bắc Cao Mật. Nông dân ru rú trong nhà cả mùa đông, cần hay không cần đều đi chợ, không tiền thì đi bát phố ngắm thiên hạ, xem hát quịt; có tiền thì ăn bánh nướng, ngồi quán trà, uống rượu hâm. Hôm ấy nắng đẹp tuy vẫn còn đôi chút gió lạnh, nhưng rõ ràng đã là tiết xuân, rét ít ấm nhiều, những cô gái thích làm dáng, trút bỏ áo lông dày cộp, thay bằng áo chẽn gọn gàng, nổi bật đường cong của cơ thể.
Sáng sớm, Tôn Bính – chủ quán trà Tôn Ký, quảy đôi thùng gỗ leo lên mặt đê, lần xuống mép sông Mã Tang, bước lên cái bến ghép bằng gỗ, múc đầy hai thùng bước trong, chuẩn bị cho một ngày làm hàng. Ông thấy băng vụn đầu hôm đã tan hết chỉ trong một đêm,dòng sông xanh biếc sóng lăn tăn, hơi nước mát lạnh từ từ dâng lên.
Năm ngoái mùa màng không thuận lắm, xuân hạn, thu lụt, nhưng không có mưa đá, thu hoạch chỉ sáu bảy phần mười. Quan huyện Tiền thương dân, báo lên là bị lụt, miễn cho vùng Đông Bắc Cao Mật một nửa thuế, vậy là dân Đông Bắc Cao Mật dư dả hơn cả nửa năm được mùa. Dân làng cảm ơn quan lớn Tiền, góp tiền làm một cái lọng, đề cử Tôn Bính đem biếu quan huyện. Tôn Bính ra sức thoái thác, nhưng dân làng giở võ cù lần, quẳng lọng vào gian giữa quán trà của ông.
Không còn cách nào khác, Tôn Bính đành vác lọng lên huyện biếu quan tri huyện. Đây là lần đầu tiên ông lên huyện kể từ khi bị vặt râu. Đi trên phố huyện, ông không thể nói rõ là mình ngượng, mình hận hay mình buồn, chỉ thấy cằm nhâm nhẩm đau, hai tai nóng bừng, bàn tay đẫm mồ hôi. Gặp người quen, chưa kịp chào, ông đã đỏ mặt. Hình như trong lời lẽ của những người quen, ông đều cảm thấy có vẻ mỉa mai diễu cợt. Định phá bĩnh nhưng không tìm được lý do.
Vào huyện, nha dịch dẫn ông đến phòng khách. Ông để lọng xuống, quay ra thì nghe thấy tiếng cười ha hả của quan lớn Tiền. Hôm ấy, quan lớn Tiền mặc áo dài, bên ngoài mặc áo chẽn, đầu đội mũ nhỏ có dải lụa đỏ, tay cầm quạt giấy màu trắng, phong thái ung dung, trang nhã. Ông lớn Tiền rảo bước, tiến đến bắt tay Tôn Bính, vồn vã:
– Tôn Bính, ta với ông đánh nhau rồi mới nhận anh em!
Nhìn bộ râu thanh thoát của quan lớn Tiền, trong lòng Tôn Bính cay đắng vô cùng khi nghĩ mình cũng từng có bộ râu đẹp như thế, mà nay cằm dưới lởm chởm như đầu con nhím. Ông định nói một câu ngỗ ngược, nhưng khi nói ra miệng lại là: Tiểu dân được dân vùng Đông Bắc ủy thác, đem lọng đến biếu ông lớn… Vừa nói ông vừa mở lọng ra – lọng đầy chữ ký của dân trong vùng, đưa đến trước mặt quan lớn Tiền. Tiền Đinh cảm động nói:
– Chà chà, bản chức vô tài vô đức, đâu dám hưởng vinh dự to lớn này? Không dám, quả thực không dám…
Sự khiêm tốn của Tiền Đinh khiến Tôn Bính cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm đôi chút. Ông đứng nghiêm, nói: Nếu quan lớn không còn điều gì sai bảo, tiểu dân xin cáo từ.
– Ông đại diện cho dân Đông Bắc lên biếu lọng, bản chức rất vinh hạnh, làm sao về ngay được? – Tiền Đinh gọi to – Xuân Sinh!…
Xuân Sinh dạ lên một tiếng, chạy đến:
– Ông lớn có điều gì sai bảo?
– Bảo nhà bếp bày tiệc đãi khách, long trọng vào! Nhân tiện bảo Phu tử viết ít thiếp, mời hơn chục vị hương thân bồi tiếp.
Bữa cơm trưa hôm đó cực kỳ thịnh soạn. Quan huyện đích thân mời rượu; các vị hương thân luân phiên mời mọc, chuốc cho Tôn Bính say lử cò bợ, chân không bén đất, những cấn cá trong lòng tan biến. Khi nha dịch dìu ông ra cổng huyện lỵ, ông ngẫu hứng cất giọng ca một khúc Miêu Xoang:
Cô vương tọa Đào hoa cung, nghĩ tới mặt hoa nàng Mỹ Dung…
Năm vừa qua, nhân dân vùng Đông Bắc Cao Mật tương đối vui, nhưng chuyện không vui cũng có. Không vui nhất là người Đức làm con đường sắt từ Thanh Đảo đến Tế Nam, vắt ngang vùng Đông Bắc. Thực ra, chuyện người Đức làm đường sắt thì cách đây mấy năm đã có tin đồn, nhưng mọi người không lấy làm được. Đến khi nền đường từ Thanh Đảo bò tới Cao Mật thì chuyện trở nên nghiêm trọng. Bây giờ, đứng trên đê Mã Tang đã có thể nhìn thấy nền đường như con rồng đất từ phía đông nam bò tới, trải dài trên cánh đồng bằng phẳng. Phía sau trấn Mã Tang, người Đức dựng những căn lều cho công nhân làm đường và kho vật liệu, cánh đường tương đối gần, trông xa như hai chiếc tàu thủy chạy song song.
Tôn Bính gánh đầy ang nước, cất thùng và đón gánh, bảo chú giúp việc mới tuyển tên là Thạch Đầu nhóm lò. Ông lau chùi bàn ghế, cọ rửa ấm chén, mở cánh cửa mặt phố, rồi ngồi sau quầy hút thuốc, đợi khách.
Từ khi bị vặt râu, cuộc sống của Tôn Bính có sự thay đổi lớn.
Trưa hôm ấy, ông ở nhà con gái. Nằm trên giường, ông nhìn lên cái thòng lọng đã buộc sẵn trên xà nhà, đợi tin con gái hành thích quan huyện, thành công hay thất bại ông đều treo cổ tự tử. Vì ông biết, chuyến này con gái thành công hay không đều liên quan đến ông, chắc chắn ông lại vào nhà giam. Ông đã từng bị giam, biết nó kinh khủng như thế nào, vì vậy thà chết còn hơn.
Tôn Bính nằm rên giường suốt buổi, lúc ngủ lúc thức, lúc nửa ngủ nửa thức. Khi nửa ngủ nửa thức, trong đầu ông lại tái diễn hình ảnh kẻ giết người như từ trên trời rơi xuống, dưới ánh trăng vằng vặc… Tên giết người cao to, chân tay thô mập, hành động nhanh nhẹn, như một con mèo đen khổng lồ. Khi đó, ông đang đi trong ngõ hẹp từ lầu Mười Hương sang khách điếm họ Tào, mặt đường lát đá sáng lên như dưới nước có trăng, lung linh cái bóng đổ dài của hắn. Rượu và gái của lầu Mười Hương khiến ông ngất ngư, đến nỗi khi tên sát nhân “bụp” cái đứng ngay trước mặt, ông cứ tưởng đó là ảo ảnh. Tiếng cười nhạt của hắn khiến ông sực tỉnh, theo bản năng, thò tay vào bọc lấy mấy đồng xu lẻ còn sót lại, ném xuống trước mặt. Tiền rơi lanh canh trên mặt đường, ông lè nhè: “Anh bạn, tui là Tôn Bính, người Đông Bắc Cao Mật, kép hát kịch Miêu Xoang, tiền bạc thì trả nợ phong tình hết rồi, hôm nào anh bạn đến Đông Bắc, người anh em sẽ diễn một vở tầm cỡ đãi anh bạn…”. Người áo đen không thèm nhìn mấy đồng xu dưới đất, mà từng bước áp sát ông. Ông cảm thấy khí lạnh toát ra từ con người này nên tỉnh hẳn rượu. Ông ý thức được, đây không phải là tên trộm vặt kiếm mấy đồng xu, mà là một kẻ đang lùng sục kẻ thù. Trong đầu ông như đèn kéo quân, cố nhớ xem ai là kẻ thù của mình, đồng thời lui dần vào một góc tối. Người áo đen lồ lộ dưới ánh trăng, đường nét khuôn mặt lờ mờ sau tấm mạng đen. Chiếc bao râu buông lơi trước ngực đập vào mắt ông, một ý nghĩ lóe lên trong đầu, hình hài quan huyện lộ ra sau bộ đồ đen, như con tằm chui ra từ xác nhộng. Cảm giác sợ hãi lập tức tan biến, chỉ còn lại sự căm thù và khinh bỉ. Thì ra là ông lớn, ông nói, giọng khinh miệt. Người áo đen vẫn cười nhạt, đồng thời nâng bao râu rũ một cái, làm như khẳng định ông đã đoán đúng. Nói ra xem nào, ông lớn! Ông muốn gì ở tui? Nói xong, tôi nắm tay lại, chuẩn bị quyết đấu với quan huyện cải trang kẻ đi đêm. Nhưng ông chưa kịp ra tay, cằm dưới đã đau nhói, một nắm râu đã trong tay người áo đen. Tôn Bính gầm lên, nhằm người áo đen xông tới. Ông đã diễn trò đã nửa đời người, nhào lộn; đấm đá trên sân khấu, tuy không thực sự là võ công, nhưng thừa sức hạ một anh tú tài. Tôn Bính bừng bừng lửa giận, hăng máu lên, nhảy xổ vào người mặc đồ đen. nhưng tay ông chưa chạm tới người áo đen thì đã ngã ngửa, gáy đập phải đá, ngất lịm. Khi ông tỉnh lại, người áo đen chặn chân trên ngực ông. Ông thở khó nhọc, nói: ông lớn đã tha cho tui rồi kia mà? Sao lại… Người áo đen cười khẩy, vẫn không nói câu nào, túm lấy chòm râu của ông giật mạnh, một nắm râu lại đã trong tay hắn. Tôn Bính đau quá kêu thét lên. Người áo đen vứt túm râu, cúi nhặt hòn cuội to bằng quả trứng, nhét gọn trong miệng Tôn Bính. Tiếp đó, bằng một động tác chính xác và mạnh, người ấy vặt sạch râu của ông. Khi Tôn Bính gượng dậy được, người áo đen đã mất hút, nếu cằm và gáy không đau như cắt thịt, ông tưởng như mình đang ngủ mê. Ông dùng tay móc hòn đá ra, nước mắt nước mũi chảy giàn giụa. Ông trông thấy những sợi râu của mình lăn lóc trên mặt đất như cỏ nước khô.
Lúc trời sắp tối, con rể cười khơ khớ, quẳng cho ông cái bánh nướng, cười khơ khớ đi luôn. Đợi đến khi lên đèn, con gái mới về nhà. Dưới ánh sáng rực rỡ của ngọn nến, con gái vui cười hỉ hả, chẳng có vẻ vừa đi giết người trở về, cũng không có vẻ giết hụt trở về, mà in như vừa dự đám cưới. Ông chưa kịp hỏi, con gái đã xịu mặt, nói:
– Cha nói bậy! Ông lớn bạch diện thư sinh, tay mềm như bông, làm sao có thể che mặt làm đạo tặc? Theo tui thì cha bị mấy con đã đổ cho nước đái ngựa, lú lẫn rồi, mắt không phân biệt thực hư, đầu không phân nổi phải trái, mới nói bậy bạ như thế. cha không nghĩ rằng, muốn vặt râu cha thì cần gì một ông tri huyện phải đích thân động thù? Lại nữa, nếu định vặt râu cha, thì khi đọ râu, sao không để cha tự vặt? Việc gì phải xóa tội cho cha? Lại nữa, câu nói bậy của cha, đủ để người ta công khai lấy mạng, cho dù không định tội, cứ giam cho đến chết trong nhà giam, việc gì phải đọ râu cho mệt? Cha ơi, cha cũng đã quẳng đi cái tuổi bốn nhăm năm mươi của cha rồi, vẫn không bao giờ nghiêm chỉnh, tối ngày ngủ lang đi bụi, bắt gà trộm chó, tui cho rằng, chính là người nhà trời vặt râu cha! Đó là trời cảnh cáo cha. Nếu cha không sửa, lần sau sẽ vặt đầu cha.
Con gái nói như liên thanh, khiến Tôn Bính toát mồ hôi. Ông nghi ngại nhìn nét mặt nghiêm chỉnh của con, nghĩ thầm: Lạ thật! Mười câu có đến tám câu không phải là khẩu khí của nó. Vỏn vẹn trong một ngày, nó đã trở thành người khác. Ông cười nhạt, hỏi:
– Mi Nương, thằng cha họ Tiền đã phù phép gì trên người con?
– Cha nói gì thế, cha còn là cha nữa không? – Mi Nương giận đỏ mặt – Ông lớn Tiền là bậc chính nhân quân tử, gặp tui ông không thèm nhìn – Nàng lấy trong bọc một thỏi bạc lớn, quẳng lên giường – Ông lớn bảo rằng, “xướng ca vô loài”, người đứng đắn không ai làm nghề này. Ông lớn thưởng cho cha đĩnh bạc năm mươi lượng, cha giải tán cái gánh hát đi, mở một cửa hiệu nhỏ.
Ông tức lộn ruột, định ném trả đĩnh bạc để tỏ rõ khí phách của người dân Đông Bắc Cao Mật, nhưng khi tay chạm vào thỏi bạc mát lạnh, ông lại không nỡ quẳng nó đi.
– Con gái, đĩnh bạc này không phải trong chì ngoài thiếc đấy chứ?
– Cha nói gì bậy bạ thế? – Mi Nương giận tím mặt – Chuyện giữa cha và mẹ tui, đừng tưởng tui không biết. Cha sống phóng đãng đã quen, khiến mẹ tui uất mà chết, tui suýt nữa cũng bị con lừa cắn chết! Tui suốt đời hận cha! Nhưng vì không thể đổi cha này lấy cha khác, dù oán hận đến mấy thì cha vẫn là cha. Trên đời này nếu có một người thành tâm mong cha tốt lên, người đó chính là tui. Cha nên nghe lời khuyên của ông lớn Tiền, kiếm nghề đứng đắn mà làm, xem ai hợp ý mình thì cưới, sống yên lành lấy dăm năm.
Tôn Bính cầm đĩnh bạc trở về vùng Đông Bắc Cao Mật, dọc đường, lúc giận cành hông, lúc ngượng chín mặt. Gặp người đi đường, ông lấy tay áo che miệng, sợ người ta trông thấy cái cằm máu loang lổ. Khi về gần đến nhà, ông dừng lại bên sông Tang Mã, làn nước phẳng như gương, ông nhìn thấy khuôn mặt xấu xí đầy nếp nhăn, tóc mai đã điểm sương, gần như một ông lão. Ông thở dài, nén đau, vốc nước rửa mặt rồi đi về nhà.
Tôn Bính giải tán gánh hát. Trong gánh có đào Hồng, mồ côi, với ông vốn đã già nhân ngãi non vợ chồng, nhân dịp này, nhờ người mai mối, chính thức cưới. Tuy tuổi tác có chênh lệch khá xa, nhưng vẫn đẹp đôi. Vợ chồng dùng số bạc ông lớn cho, mua một cơ ngơi trên phố, sửa sang đôi chút, mở một quán trà. Mùa xuân năm ngoái, Đào Hồng đẻ sinh đôi, một trai một gái, đại hỉ. Tiền đại nhân sai người đem lễ vật đến mừng: Một đôi kiềng cổ, mỗi chiếc hai lượng. Chuyện này kinh động vùng Đông Bắc Cao Mật. Người đến mừng rất đông, bốn mươi mâm mới đủ. Người ta đồn mảnh với nhau, rằng quan huyện là chàng rể một nửa của Tôn Bính, Tôn Mi Nương là quan bà một nửa. Lúc đầu nghe nói vậy, ông cảm thấy nhục nhã, dần dà cũng bỏ ngoài tai. Râu không còn, trước như con ngựa bất kham trụi bờm trụi lông đuôi, uy phong đã mất mà trái tính cũng đỡ, khuôn mặt ngang tàng xưa kia, nay hiền hòa, bóng nhẫy. Tôn Bính bây giờ đang sống hạnh phúc và yên ổn. Mặt đỏ au, tính nết hiền hòa, đúng là một hương thân.
Khoảng nửa buổi, khách đông. Tôn Bính cởi áo dài bông, chỉ mặc một áo chẽn, khăn mặt vắt vai, tay xách bình trà cổ cao, chạy tới chạy lui, bận rộn toát mồ hôi. Ông vốn hát giọng cao. Giờ đây, vận dụng nghệ thuật sân khấu vào công việc làm ăn, giọng ông lên bổng xuống trầm, bước chân ông như nhảy như múa. Chân tay nhanh nhẹn, động tác chuẩn xác, nhất cử nhất động, tiết tấu phân minh. Bên tai ông, hình như có dàn đệm của đàn Miêu, tì bà và sáo trúc. Lâm Xung bỏ trốn trong đêm, Thất không trảm, Phong ba đình, Thường Mậu khóc mèo… Ông pha trà, thêm nước, chạy tới chạy lui, quên hết những việc khác, hạnh phúc trong lao động. Sân sau, ấm nước sôi rít lên lanh lảnh. Ông vội chạy vào lấy nước. Chú giúp việc Thạch Đầu tóc đầy bụi than, mặt nhem nhuốc, do vậy hàm răng càng trắng. Thấy chủ vào, chú càng ra sức kéo bễ. Trên bốn bếp lò là nước sôi bắn xèo xèo xuống bếp, khói trắng bốc lên, mùi thơm xộc vào mũi. Đào Hồng vợ ông, mỗi tay dắt một đứa lẫm chẫm tập đi, đòi lên chợ chơi. Bọn trẻ vui cười, mặt tươi như hoa. Đào Hồng bảo:
– Con Bảo, con vân chào cha đi!
Hai đứa trẻ lúng búng chào cha. Ông đặt ấm xuống, lau tay bằng vạt áo, bế hai đứa trẻ lên, dùng cái cằm đầy sẹo thơm lên má chúng. Mặt chúng có mùi sữa. Bọn trẻ cười như nắc nẻ, ông cảm thấy mật ngọt đang tan trong người. Ngọt đến cực điểm thì có vị chua. Bước chân ông càng thanh thoát, ứng đối khách cười sang sảng. Nét mặt tươi cười của ông, người khó tính đến mấy cũng phải thừa nhận rằng, ông đang hạnh phúc.
Tranh thủ một phút rỗi, Tôn Bính tựa quầy châm tẩu thuốc, rít một hơi thật dài. Từ khung cửa mở rộng, ông trông thấy vợ dắt hai con hòa vào dòng người, đi về phía chợ.
Một người tai to mặt lớn, vẻ phú quí ngồi trước bàn bên cạnh cửa sổ. Ông ta tên là Hiếu Cổ, tự Niệm Tổ, người ta gọi ông là Hai Trương. Ông Hai Trương tuổi ngoài năm mươi, mặt hồng hào, khí sắc cực tốt. Chiếc mũ quả dưa bằng đoạn màu đen chụp trên cái đầu tròn xoay, mặt trước mũ đính vào viên ngọc lục hình chữ nhật. Ông Hai là người học rộng ở vùng Đông Bắc Cao Mật, mua chức giám sinh, từng xuống Giang Nam, từng lên biên giới phía bắc, tự khoe rằng, đã từng một đêm nhất dạ phong lưu với kỹ nữ nổi tiếng Bắc Kinh Trại Kim Hoa. Chuyện thiên hạ, chỉ cần mào đầu, không có chuyện nào ông không biết phần đuôi. Ông là khách hàng quan của quán trà Tôn Ký, chỉ cần ông ngồi vào ghế là nói hết phần của những người khác. Ông Hai bê bát trà lên, mở nắp, dùng ba đầu ngón tay gạt bọt sang một bên, thổi phù một cái, nhấp một ngụm nhỏ, chép chép miệng, nói:
– Ông quán, sao trà hôm nay nhạt thế?
Tôn Bính vội gõ tẩu, lon ton chạy tới:
– Thưa ông Hai, đây là trà Long Tỉnh loại một mà ông vẫn thường dùng.
Ông Hai lại nhấp một ngụm nhỏ, chép chép, nói:
– Đúng là nhạt.
Tôn Bính vội nói:
– Không thì đốt quả hồ lô cho ông Hai.
– Hơi cháy một chút – Ông Hai nói.
Tôn Bính trở lại quầy, lấy xiên xuyên suốt quả bầu be rồi nướng trên ngọn đèn dầu, một mùi thơm kỳ lạ lập tức tỏa khắp căn phòng.
Sau khi uống nửa chung trà đậm pha trong quả bầu be, tinh thần ông Hai phấn chấn hẳn lên, hai mắt ông linh hoạt như hai con cá nhỏ, lướt trên khuôn mặt mọi người. Tôn Bính biết, ông Hai sắp cao đàm khoát luận. Cậu cả Ngô người gầy guộc, răng xỉn vì trà đặc và khói thuốc, cất giọng khê đặc hỏi:
– Ông Hai, đường sắt có tin gì mới không?
Ông Hai đặt đánh cạch bát trà xuống bàn, dẩu môi trên, khịt mũi một cái, ra vẻ kẻ cả:
– Tất nhiên có tin mới. Ta có nói với các vị rằng, ông bạn Quảng Đông Giang Nhuận Hoa tiên sinh của ta là Tổng Chủ bút Vạn quốc công báo, trong nhà lắp đặt hai máy điện báo, nhận từ Đông dương Tây dương tất cả những tin tức mới nhất. Hôm qua, nhà ta vừa nhận được Phi Hồng truyền thư – Từ Hi Thái Hậu tiếp đặc sứ Đức tại cung Vạn Thọ – Di Hòa Viên, bàn chuyện xây dựng đường sắt Giao – Tế.
Cậu cả Ngô vỗ tay:
– Ông Hai, ông đừng nói vội, để tiểu nhân đoán thử.
– Cậu đoán xem nào – Ông Hai nói – Cậu mà đoán đúng, ta bao hết tiền trà của các vị ở đây.
– Ông Hai hào phóng quá! – Cậu cả Ngô nói – Tiểu nhân đoán là, đôn kêu của dân chúng đã phát huy tác dụng, đường sắt đổi tuyến rồi.
– Vạn hạnh, vạn hạnh – Một ông râu đốm bạc lẩm bẩm – Lão Phật gia sáng suốt! Lão Phật gia sáng suốt!
Ông Hai lắc đầu, thở dài:
– Các vị phải tự trả tiền trà thôi.
– Rút cuộc vẫn không đổi tuyến! – Cậu cả Ngô cáu kỉnh, nói – Vậy là công toi.
– Đơn thỉnh cầu của dân đã bị đại nhân nào đó dùng làm giấy lau tay rồi – Ông Hai vẻ oán trách – Lão Phật gia đã nói ra miệng, “Hoàng Hà có thể đổi dòng, đường sắt Giao – Tế thì không đổi tuyến”.
Mọi người chán nản, đây đó vang lên những tiếng thở dài. Tú tài Khúc có mảng lang ben trên mặt, nói:
– Vậy vua Đức cử đặc sứ sang, để tăng tiền đền bù chiếm đất phá mồ mả của ta chứ gì?
– Ông tú Khúc bàn sát nút rồi đó – Ông Hai rành rẽ – Đặc sứ của Đức hoàng gặp lão Phật gia đã dùng đại lễ – ba lần quì lạy, chín lần khấu đầu để ra mắt, sau đó dâng lên một quyển sổ da dê loại hảo hạng, vạn năm cũng không rách. Đặc sứ nói, Đức hoàng bảo, quyết không để nhân dân vùng Đông Bắc Cao Mật bị thiệt. Chiếm một mẫu đất, bồi thường một trăm lượng bạc; hủy một ngôi mộ, đền hai trăm lượng. Từng gánh bạc trắng đã được tàu thủy đưa đến từ lâu rồi.
Mọi ngẩn ra một thoáng, rồi lập tức ồn lên:
– Mẹ kiếp, chiếm của tui một mẫu hai mà chỉ bồi thường có tám lạng!
– Phá của nhà tui hai ngôi mộ tổ mà cũng chỉ đền có mười hai lượng!
– Thế bạc chạy đi đâu?
– Làm gì mà ầm lên thế? – Ông Hai vỗ bàn, không bằng lòng – Gào đến vỡ trời cũng chẳng ăn thua! Nói để các vị biết, số bạc đã bị bọn phiên dịch, bọn Hán gian mại bản cắt xén hết.
– Đúng, đúng – Cậu cả Ngô nói – Có biết thằng Cầu bán quẩy ở trước đồn không? Thằng cha làm chân hầu bài trong tháng cho bọn phiên dịch. Mỗi tối nhặt nhạnh tiền giấy rơi dưới đất cũng được nửa bao. Chỉ cần chơi với bọn đường sắt, bất kể rùa rùa ba ba đều giàu to! Nếu không, đã chẳng có câu “Xe lửa nổi còi, vàng thoi vạn lượng”.
– Ông Hai, những chuyện này lão Phật gia có biết không?
– Cậu hỏi ta – Ông Hai trợn mặt – Vậy ta hỏi ai?
Mọi người cười đau khổ, rồi cúi xuống húp trà xoàn xoạt.
22
Im ắng một lát, ông Hai thấp thỏm ngó ra ngoài, sợ có người nghe trộm, ông hạ giọng nói:
– Có chuyện đáng sợ hơn, các vị muốn nghe không?
Mọi người nhìn chằm chằm vào miệng ông Hai đợi nghe kể, không ai nói gì.
Ông Hai nhìn quanh, vẻ bí hiểm:
– Ông bạn thân của ta, tiên sinh Vương Vũ Đình, người Bái Nhiên, làm trợ tá phủ đường Giao Châu, gần đây tiếp nhận mấy chục vụ án kỳ lạ; rất nhiều đàn ông khi ngủ dậy thấy đuôi sam đã bị cắt cụt.
Mọi người kinh ngạc, không ai dám hỏi gì thêm, chỉ dỏng tai nghe ông Hai kể tiếp:
– Những người bị cắt đuôi sam, thoạt tiên đầu váng mắt hoa, tay chân bải hoải, tiếp theo là tinh thần thảng thốt, nói năng lảm nhảm, thế là tàn đời! – Ông Hai nói – Thuốc mấy cũng không khỏi, vì rằng đây không phải bệnh trong người.
– Chẳng lẽ lại có phong trào tóc dài? – Cậu cả Ngô nói – Tiểu nhân nghe người già kể, những năm thời Hàm Phong, quân tóc dài đánh lên phía Bắc, cắt đuôi sam trước, chém đầu sau.
– Không phải, không phải! – Ông Hai nói – Lần này là do bọn truyền giáo Đức giở trò ma thuật.
Tú tài Khúc băn khoăn:
– Cắt đi bấy nhiêu đuôi sam dùng vào việc gì?
– Cổ hủ quá! – Ông Hai tỏ vẻ không bằng lòng – Ông tưởng người ta cần cái đuôi sam của ông chắc? Người ta cần là cần linh hồn ông. Vì sao những người bị cắt đuôi sam lại bị chứng bệnh như vậy? chẳng phải bệnh tâm hần thì là bệnh gì?
– Ông Hai, tui vẫn có chỗ chưa rõ – Tú tài nói – Người Đức bắt đi bấy nhiêu linh hồn để làm gì?
Ông Hai cười nhạt, không trả lời.
– Ông Hai, tiểu nhân đã hiểu, chắc hẳn chuyện này liên quan đến đường sắt.
– Cậu cả thông minh! – Ông Hai hạ giọng, vẻ bí mật – Chuyện này không được nói lung tung. Người Đức dùng đuôi sam lót đường ray, mỗi thanh ray là một đuôi sam, mỗi đuôi sam là một linh hồn, mỗi ling hồn là một người đàn ông khỏe mạnh. Các vị thử nghĩ coi, xe lửa là một đống sắt nặng hàng chục vạn cân, nó không uống nước, không ăn cỏ, vậy mà chạy băng băng! sức mạnh ấy từ đâu mà ra? Các vị thử nghĩ xem.
Mọi người ngớ ra, im như thóc. Các ấm siêu trong bếp rít còi lanh lảnh. Mọi người linh cảm có cái gì đó cực kỳ khủng khiếp ấy sắp xảy ra, gáy lạnh toát, hình như có cái kéo rình mò phía sau lưng.
Giữa lúc mọi người đang lo lắng cho cái đuôi sam sau gáy, chú giúp việc ở hiệu thuốc trên trấn hớt hải chạy tới, thở hồng hộc, nói đứt quãng:
– Bác chủ quán… không hay rồi… Ông chủ sai cháu báo bác biết, kỹ sư Đức đang làm nhục bác gái trên trấn… Ông chủ bảo bác lên ngay, để muộn lôi thôi to!
Tôn Bính thất kinh, đánh rơi cái ấm, nước sôi bắn tung tóe, hơi nước mù mịt. Tiếp theo là lửa giận bừng bừng đốt cháy toàn thân. Khách hàng đều nhìn thấy cái cằm đầy những sẹo của ông co giật dữ dội, vẻ mặt thanh thản vỗ cánh bay đi, ở lại là bộ mặt hung thần ác quỉ. Tay phải tì mặt quầy, dướn mình lên như chuẩn bị bay, ông vọt ra đường, thuận tay vớ lấy cây gập chèn cửa bằng gỗ táo.
Khách uống trà cũng bị kích động, ồn ào như vỡ chợ. Mọi người đang bàng hoàng về chuyện chuyện cắt đuôi sam, đột nhiên được tin người Đức hạ nhục phụ nữ Trung Quốc, thế là nỗi sợ biến thành cơn giận. Sự bất bình chất chứa bấy nay, từ khi người Đức làm đường sắt Giao – Tế, cuối cùng trở thành hận thù. Tính khì người Cao Mật tiềm ẩn trong mỗi con người bùng nổ, lửa giận bừng bừng, bất kể sống chết, gầm thét chạy theo Tôn Bính ra chợ.
Tôn Bính chạy dọc theo phố hẹp, gió thổi hai bên tai ù ù. Ông cảm thấy máu dồn hết đỉnh đầu, vì vậy tai ong ong, mắt mờ đi. Những người trên đường đều như hình nhân bằng giấy, ngả ngiêng trước luồng gió do ông chạy như điên gây ra. Từng khuôn mặt méo mó lướt qua bên vai ông. Ông trông thấy một đám người quây thành vòng tròn trên khoảnh đất trống giữa hiệu thuốc Tế Sinh Đường và hiệu tạp hóa Lý Cẩm Ký, không nhìn thấy giữa vòng tròn có gì, nhưng nghe rõ tiếng la đến khản giọng của vợ và tiếng gào khóc của thằng Bảo con Vân. Ông gầm lên một tiếng như hổ gầm, như sói hú. Ông giơ cao cây gậy gỗ táo màu đỏ sẩm xông tới như một con thú nổi khùng. Mọi người dãn ra, nhường đường cho ông. Ông trông thấy tên kỹ sư Đức cẳng như cẳng sếu, đầu như mõ chùa, một tên đứng trước, một tên đứng sau sờ soạng vợ ông. Vợ ông dùng hai cánh tay che chắn, đỡ gạt rối cả lên, nhưng che được ngực thì hở mông, che được mông thì hở ngực. Bọn kỹ sư Đức cánh tay lông lá, đỏ au, dẽo như chân bạch tuộc, khó mà tránh. Mắt chúng chớp chớp, xnah như mắt mèo. Mấy tên cùng hội với hai tên này vỗ tay tán thưởng. Thằng Bảo và con Vân của ông lê la dưới đất gào khóc. Ông gầm lên một tiếng như con mãnh thú bị trọng thương, cây gậy gỗ táo rắn như thép nguội kéo theo làn gió đỏ sẫm, đập vào sau ót tên kỹ sư Đức lưng quay về phía ông, đứng lom khom, hai tay đang thọc trong đũng quần của vợ ông. Ông nghe thấy một tiếng “bịch” khi cây gậy đập vào gáy hắn, và cổ tay ông rung chuyển. thân hình tên kỹ sư dướn lên một cái rất kỳ quặc rồi mềm nhũn, nhưng hai tay hắn vẫn thọc trong đũng quần vợ ông. Thân hình cao to của tên kỹ sư đè lên Đào Hồng. Tôn Bính trông thấy rất nhiều máu đỏ sẫm chảy trên đầu tên kỹ sư Đức và ngay lập tức ngửi thấy mùi tanh nồng. Ông còn thấy tên Đức bóp vú vợ ông vừa nãy mặt mày nhăn nhở, giờ miệng há hốc như quỷ sứ. Ông rất muốn vụt tiếp tên ấy, nhưng hai cánh tay rã rời, cây gậy rơi xuống đất. Cú đập chí mạng vừa rồi, tiêu hao hết sức lực ông. Nhưng ông nhìn thấy sau lưng một rừng khí giới, đòn gánh có, cuốc xẻng có, cán chổi có, nhiều nhất là nắm đấm. Tiếng hò đáng inh tai nhức óc. Một số công nhân làm đường và hai tên Đức khác vội dìu tên kỹ sư sợ đến đờ đẫn thất thểu bỏ chạy, để lại tên Đức bị đánh vỡ sọ giữa đám người.
Tôn Bính đứng ngây ra một lúc rồi cúi xuống, cố lật tên Đức sang bên. Tên này vẫn co giật một cách kỳ quặc. Hai tay hắn thọc trong quần của vợ ông dài như rễ của cây cổ thụ, kéo mãi mới ra hết. Lưng vợ ông dính đầy máu tên Đức. Ông lợm giọng, chỉ muốn nôn, thậm chí quên cả kéo vợ dậy, vợ ông phải tự làm lấy. Tóc rối bù, khuôn mặt hơi gầy bê bết bùn đất, xấu đi một cách đáng sợ. Nàng vừa khóc vừa sà vào lòng ông, nhưng ông chỉ nghĩ đến chuyện nôn ọe, không còn hơi sức ôm lấy nàng. Đột nhiên, vợ ông nhào ra khỏi lòng ông, chạy đến chỗ hai con đang gào khóc. Nàng đứng đó, nhìn không chớp mắt tên Đức co giật từng cơn.
Đứng trước thân hình tên Đức như một con rắn chết, ông mơ hồ cảm thấy đại họa sắp tới gần. Nhưng trong lòng ông, công lý đang lên tiếng biện hộ cho ông: chúng tròng ghẹo vợ tui, tay chúng đã thọc vào đũng quần của vợ tui. Chúng đã làm tổn thương con cái tui. Do vậy tui mới đánh hắn. Nếu như hắn thọc tay vào đũng quần vợ anh thì anh có để yên không? Lại nữa, tui không định đánh chết hắn, chẳng qua là cái đầu hắn mềm quá. Ông cảm thấy mình không có gì sai, tình lý đúng cả. Bà con xung quanh có thể làm chứng. Những công nhân làm đường có thể làm chứng. Các vị có thể hỏi cái ông kỹ sư kia, chỉ cần ông ấy có lương tâm, ông ấy cũng có thể chứng minh, rằng các ông ấy chọc ghẹo vợ tui trước, hạ nhục vợ tui, bấn quá tui mới dùng gậy đánh ông ấy. Dù rằng cảm thấy tình lý trong tay, nhưng hai chân ông vẫn nhũn ra, miệng vừa khô vừa đắng, cái cảm giác đại họa sắp choán hết trong đầu ông, đuổi không đi, khiến ông không còn khả năng tư duy phức tạp. Người xem rất đông, lặng lẽ bỏ đi hết. Hàng quán hai bên đường vội vã dọn hàng, xem ra họ muốn rời khỏi đây, càng sớm càng tốt. Dọc hai bên phố, mới giữa trưa mà các cửa hiệu đều đóng cửa, lạii còn treo biển đang kiểm kê. Đường phố bỗng trở nên rộng hơn rất nhiều. Gió heo may tràn về, thổi tróc cây bay lá trên đường phố thênh thang. Vài con chó màu lông bẩn mắt, nấp trong ngõ, sủa ran.
Ông đâm hoảng khi nhận ra rằng, gia đình ông hình như đang ở giữa sân khấu, mọi người đang xem ông biểu diễn. Những ánh mắt nhìn trộm qua kẽ hở của các cửa hiệu xung quanh qua ô cửa của các nhà phố bên, và từ các xó xỉnh khác. Vợ ôm hai đứa nhỏ, run cầm cập trong gió lạnh. Nàng nhìn ông bằng cặp mắt đáng thương, van xin ông hãy thông cảm và tha thứ cho nàng. Hai đứa trẻ rúc đầu trong vạt áo mẹ như hai con chim non quá khiếp hãi, bạ đâu rúc đấy. Trái tim ông như bị cứa bằng lưỡi dao cùn, đau cùng cực. Mắt cay, sống mũi cay cay, một tình cảm bi tráng dâng lên, ông đá tên kỹ sư một cái, chửi: Mẹ mày, giả vờ chết phải không? Ông ngẩng đầu lên, cao giọng nói với những cặp mắt lén lút xung quanh:
– Chuyện hôm nay, bà con đã thấy hết. Nếu quan phủ có hỏi, xin bà con hãy nói theo lẽ phải, tui xin lạy tạ – Ông chắp tay vái bốn phía, nói tiếp – Tui đánh chết người, tội ai người nấy chịu, quyết không để liên lụy đến bà con!
Hôm sau, ông vẫn mở quán từ sáng sớm, lau chùi bàn ghế. Chú giúp việc Thạch Đầu, vẫn ra sức kéo bễ quạt lò. Bốn ấm nước sôi sùng sục. Nhưng mặt trời đã gần trưa mà vẫn không có khách. Đường phố trước cửa vắng tanh, không một bóng người, từng cơn gió lạnh buốt cuốn lá bay đi. Vợ ông mỗi tay bế một đứa, bám sau ông, không rời nửa bước. Cặp mắt to, trắng đen phân minh, thấp thỏm không yên. Ông xoa đầu bọn trẻ, cười nhẹ nhõm: về buồng nghỉ đi, không chuyện gì đâu, chúng tròng ghẹo con nhà lành, nếu phải chém thì chém đầu chúng!
Ông biết mình cố ra vẻ bình tĩnh, vì rằng ông thấy bàn tay cầm giẻ lau của ông run lẩy bẩy. Sau đó, ông bắt vợ phải vào sân trong, còn mình thì ngồi ngoài quán, tay vỗ bàn, cất tiếng hát một khúc Miêu Xoang:
Ngóng quê nhà đường đi xa lắc, nhớ vợ hiền nương cậy vào ai. Như tui nay dữ lành chưa rõ, còn nàng ư, sống chết khôn lường.
Aùi chà chà, toàn thân tui ướt đẫm vì sợ, nhen lửa lòng nung nầu con tim…
Như người ta mở đập nước, khúc thứ nhất hát xong, lời ca mà cả đời tích cóp, cuồn cuộn chảy theo. Ông càng hát càng ai oán, càng hát càng thê thảm, lệ chảy từng dòng xuống cái cằm không râu.
Hôm ấy, tất cả người dân ở trấn Mã Tang lặng nghe tiếng hát của ông.
Một ngày dài dặc trôi đi trong tiếng hát. Mặt trời sắp lặn đỏ như máu, quét trên rừng liễu ven đê. Từng đàn chim sẻ đậu trên một ngọn cây liễu, cùng cất tiếng kêu nháo nhác như mách bảo ông điều gì đó. Ông đóng cửa quán, cầm cây gậy gỗ táo ngồi đợi trước cửa sổ. Ông chọc thủng giấy dán cửa, nhìn ra ngoài quan sát động tĩnh. Chú giúp việc Thạch Đầu bên đến cho ông một bát kê, ông ăn một miếng, nuốt không trôi. Ông bị sặc, hạt kê vọt ra lỗ mũi như đạn ghém. Ông bảo Thạch Đầu:
– Này con, sư phụ gây đại họa, người Đức sớm muộn sẽ đến trả thù, nhân lúc bọn chúng chưa tới, con nên trốn đi!
– Sư phụ, con không đi, con đánh giúp sư phụ – Thạch Đầu lôi trong bọc cái giàn thun, nói – Con bắn rất trúng.
Ông không khuyên Thạch Đầu nữa. Cổ họng khê đặc, ông nói rất khó khăn. Ông cảm thấy ngực đau không chịu nổi, y như hồi học nghệ bị ngã khi tập. Chân tay ông vẫn còn run, trong bụng vẫn hát trầm một hồi ba cảnh của một vở diễn.
Lúc vầng trăng lưỡi liềm treo trên ngọn cây liễu, ông nghe thấy tiếng vó ngựa từ phía tây của con đường đá, phi tới. Ông nhảy dựng lên, bàn tay nóng hổi nắm chặt cây gậy gỗ táo, chuẩn bị đối phó. Ông trông thấy, dưới ánh trăng sao yếu ớt, một con la to lớn màu đen, ngất ngưởng chạy tới, người cưỡi mặc đồ đen, đeo mạng đen, không rõ mặt.
Đến trước cửa quán, người ấy lăn khỏi mình con la, gõ cửa cộc cộc.
Ông nắm chắc cây gậy, nín thở, nấp sau cánh cửa.
Tiếng gõ không mạnh, nhưng bức bách.
Giọng khản đặc, ông hỏi:
– Ai?
– Tui!
Ông nhận ra ngay tiếng con gái, mở vội cửa, nàng Mi Nương màu đen lách vào, nói luôn:
– Cha, đừng nói gì nữa, chạy mau!
– Vì sao cha phải chạy? – Ông giận dữ nói – Chính chúng chọc ghẹo con nhà lành trước!
Con gái ngắt lời ông:
– Cha gây họa lớn rồi! Người Đức điện báo cho Bắc Kinh, Tế Nam. Viên Thế Khải cũng điện cho Tiền đại nhân phải bắt cha ngay trong đêm nay, đội truy bắt sắp tới rồi!
– Thế này thì còn công lý gì nữa!
Ông định tranh luận, nhưng con gái nổi cáu, nói:
– Nước đến chân rồi! – Con gái nghiêng tai nghe. Từ xa vọng lại tiếng vó ngựa dồn dập – Cha, đi hay ở tùy cha định liệu – Nàng nghiêng mình lách ra ngoài, nhưng lại ló nửa người vào trong, nói – Cha chạy đi, bảo dì Hồng giả điên.
Ông trông thấy con gái nhẹ nhàng nhảy lên mình la, cúi rạp, gắn người với la làm một. Con la hắt xì hơi, chạy vụt đi, ánh sao nhảy nhót trên cặp mông, thoắt cái hòa lẫn vào bóng đêm, tiếng vó xa dần về hướng đông.
Ông vội vàng đóng cửa, quay lại thì đã thấy vợ xõa tóc, mặt bôi đầy nhọ nồi, vạt trước mở phanh, để lộ mảng ngực trắng phau, đang đứng trước mặt. Nàng nói, giọng nghiêm túc:
– Nghe lời Mi Nương, chạy đi!
Ông nhìn cặp mắt long lanh trong đêm tối của vợ, trong lòng chua xót. Trong giờ phút đặc biệt này, người đàn bà bề ngoài có vẻ yếu đuối, lại dũng cảm cơ trí đến thế! Ông nhào tới ôm chặt vợ. Vợ ông dùng sức đẩy ông ra, giục:
– Chạy mau đi, bố nó! Đừng lo cho em và các con.
Ông vọt ra cửa, men theo con đường mòn quen thuộc ngày thường ông vẫn đi lấy nước, trèo lên đê Mã Tang. Ông nấp sau gốc cây liễu lớn, chăm chú nhìn xuống thị trấn yên tĩnh, con đường màu xám và ngôi nhà của ông. Ông nghe rõ tiếng khóc nức nở của thằng Bảo và cái Vân mà lòng như dao cắt. Trăng non như mày ngài gác trên chân trời phía tây, đẹp đến não lòng. Bầu trời mênh mông điểm kín những vì sao, ánh sao lung linh như kim cương. Thị trấn tối mò, không nhà nào lên đèn. Ông biết, mọi người chưa ngủ, đang lắng nghe động tĩnh ngoài phố, làm như chìm trong đêm tối thì triệt tiêu được tại họa không bằng. Tiếng vó ngựa từ xa đến gần, chó trong thị trấn sủa đồng loạt. Đội khinh kỵ đen ngòm chen lấn nhau phi tới, không đếm được có bao nhiêu con ngựa, chỉ nghe tiếng cá sắt nện trên mặt đường đá, bắn lên từng chuỗi lửa hoa.
Đoàn ngựa đến trước cửa nhà ông, lượn mấy vòng rồi dừng lại. Ông trông thấy loáng thoáng bọn bắt người, loáng thoáng từ trên lưng những con ngựa nhảy xuống đất. Bọn chúng hò hét, hình như cố ý để lộ mục tiêu. Hò hét một hồi, chúng mới đốt mấy cây đuốc đem theo, ánh đuốc soi tỏ đoạn đường, nhà cửa, và những cây liễu trên đê. Ông vội thu mình nấp kín hơn nữa sau gốc cây. Đàn chim trú đêm thấy động, vỗ cánh aby lên rào rào. Ông ngoảnh nhìn thấy dòng sông phía sau. Chuẩn bị phòng khi phải nhảy xuống chạy trốn. Nhưng đội truy bắt không hề để ý lũ chim vỡ đàn, cũng không một ai lên sục sạo trên đê.
Lúc này ông đã nhìn rõ, tất cả có chín con ngựa, màu lông lôm côm, trắng có đen có, đỏ có vàng có, đều là giống ngựa bản địa, dáng không đẹp, mông không trơn, thể lực không tốt, bờm rối bù, yên cương cũ nát. Có bốn con không yên, thay vào đấy là chiếc bao tải vắt ngang lưng. Dưới ánh đuốc bập bùng, đầu lũ ngựa trông vừa thô vừa xấu, mắt lũ ngựa vừa sáng vừa trong. Đội truy bắt giơ cao ngọn đuốc soi rõ biển hiệu, rồi thong thả gõ cửa.
Không ai ra mở cửa.
Đội truy bắt đập cửa.
Tôn Bính lờ mở cảm thấy rằng, đội truy bắt không hề có ý bắt ông, định bắt thì không có ai dềnh dàng như thế, không ai kiên trì gõ cửa như thế. Ông đâm ra rất có cảm tình với bọn truy bắt. Tất nhiên ông hiểu, đằng sau bọn truy bắt là ông lớn Tiền, và đằng sau ông lớn Tiền là Mi Nương, con gái ông.
Cửa quán bị phá, bọn truy bắt giơ cao ánh đuốc, dềnh dàng bước vào. Ông lập tức nghe thấy tiếng khóc chen lẫn tiếng cười điên loạn của vợ ông, và cả tiếng khóc thất thanh của hai đứa trẻ.
Bọn truy bắt ầm ĩ một hồi rồi cầm đuốc quay ra, có đứa lẩm bẩm điều gì đó, đứa thì ngáp vặt. Bọn chúng lần chần hồi lâu trước cửa rồi hò nhau lên ngựa bỏ đi, tiếng vó ngựa và ánh đuốc xuyên dọc phố. Thị trấn trở lại yên tĩnh. Ông đang định xuống đê về nhà, thì thấy đèn đóm của mọi nhà nhất loạt bừng sáng như có một hiệu lệnh thống nhất. Dừng một khắc, mấy cây đèn lồng rồng rắn nối nhau trên phố, chuyển động như bay về phía nhà ông.
Dòng nước mắt nóng hổi ứa ra từ đôi mắt ông.
Những ngày sau đó, theo kinh nghiệm của người già, ban ngày ông lánh sang rặng liễu bên kia sông, nơi có mấy nấm nhà đắp bằng đất dùng để sấy thuốc lá. Ban đêm yên ắng, vắng người qua lại, ông mới bơi qua sông, lẻn về nhà. Sáng tinh mơ hôm sau, nhét bánh vào bao, lấy nước vào hồ lô, ông lại sang chỗ ẩn nấp.
Trên mấy cây liễu to gần kề, có tổ chim khách. Ông nằm trên giường đất, ăn rồi lại ngủ, ngủ dậy lại ăn, ban đầu ông không dám ra khỏi nhà, dần dà ông lơi cảnh giác. Ông ra chỗ gốc cây xem bọn chim khách cãi nhau. Một thanh niên chăn dê, vóc người cao to, kết bạn với ông. Cậu ta tên là Mộc Độc, hiền lành, không giỏi giang gì. Ông đưa bánh cho Mộc Độc ăn, đồng thời nói mình là Tôn Bính, người đánh chết tên kỹ sư Đức.
Ngày mồng bảy tháng Hai, tức là ngày thứ năm sau khi tên Đức bị đánh chết. Buổi trưa. Ông ăn mấy cái bánh tráng, uống một bát nước lạnh, nằm trên giường nghe đám chi khách líu ríu và con gõ kiến mổ cây làm tổ, mơ màng nửa thức nửa ngủ. Bỗng từ bên kia sông vọng lại tiếng súng nổ chát chúa. Lần đầu tiên trong đời, ông nghe thấy tiếng nổ của loại súng khai hậu, bắn nhanh, khác xa tiếng nổ của súng bản địa. Tim ông nhói một cái, hiểu rằng đại sự thế là đã hỏng. Ông nhảy xuống đất, cầm lấy cây gậy gỗ táo, nấp sau cánh cửa cũ nát, đợi kẻ thù. Lập tức mấy tiếng nổ đanh nhưng vẫn từ bên kia sông vọng tới. Ông không thể cứ ở trong nhà được nữa, bèn lẩn ra ngoài, lom khom vượt qua mấy bức tường đổ, chạy vào rừng liễu. Ông nghe bên trấn Mã Tang, tiếng vợ khóc, tiếng con gào, tiếng ngựa hí, tiếng lừa kêu, tiếng chó sủa, cùng dậy lên, nhưng không thể nhìn thấy cái gì. Cái khó ló cái khôn, ông giắt gậy vào cạp quần, trèo lên cây liễu cao nhất. Lũ chim khách bị phá rối, từng đàn từng lũ tấn công ông quyết liệt. Ông khua gậy đuổi chúng đi, hết đợt này đến đợt khác. Ông đứng bên một cái tổ to bự của chim khách, tay vịn chạc cây, nhìn sang bên kia sông. Tình hình bên trấn lần lượt diễn ra trước mắt ông.
Ông trông thấy, có đến bốn mươi chín con ngựa tây cao to đứng rải rác trên khoảng đất trống cửa nhà ông, bọn lính tây quần áo rực rỡ, đầu đội mũ ống cài lông chim, tay cầm súng màu xanh đen lắp lưỡi lê, nhằm cửa ra vào và cửa sổ nhà ông mà bắn. Từng đám khói trắng phụt ra từ đầu nòng như từng chuỗi bông cúc nhỏ, rất lâu mới tan. Những cúc áo bằng đồng, và những lưỡi lê bằng thép, sáng loáng dưới nắng. Đứng đằng sau đám lính tây, là bọn lính dõng nhà Thanh, đầu đội nón có tua đỏ, trước ngực sau lưng đáp thêm miếng tròn bằng và trắng. Mắt ông mờ đi, cây gậy tuột khỏi tay, va đập vào cành cây trước khi rơi xuống đất. May mà tay ông bám chắc chạc cây, không bị ngã theo.
Lòng như lửa đốt, ông biết đại họa đã thực sự giáng xuống, nhưng trong lòng còn le lói chút hi vọng, đó là trông mong vào tài diễn xuất của vợ, nhất là những vai giả dại. Bọn Đức rồi sẽ nhưng đám lính dõng, náo loạn một hồi rồi tay không ra về. Cũng đúng vào lúc này ông quyết định, qua được đận này, ông sẽ đưa vợ con đi thật xa.
Điều kinh khủng nhất đã xảy ra. Ông trông thấy hai tên lính Đức kẹp chặt hai tay vợ ông, lôi lên đê. Vợ ông gào lên, hai chân kéo lê trên mặt đất. Hai đứa trẻ, bị một tên Đức hộ pháp cầm chân xách ngược như người ta xách gà xách vịt, đem lên mặt đê. Chú Thạch Đầu tuột khỏi tay một lính Đức, hình như còn cắn nó một miếng. Ông trông thấy cái thân hình bé nhỏ và đen thủi của Thạch Đầu cứ lùi, lùi nữa, cho đến khi lưng chú chạm mũi lê của thằng lính Đức đứng sau, lưỡi lê lóe sáng dưới nắng, xuyên qua người chú.
Hình như chú kêu lên một tiếng, hình như chẳng có tiếng kêu gào nào phát ra, như một quả bóng màu đen, chú lăn lông lốc xuống sông. Tôn Bính dán mình trên cây, mắt tối sầm khi nhìn thấy bãi máu trên đê.
Bọn Đức đã rút hết lên mặt đê, có tên quì một chân, tên thì đứng, nâng súng nhằm bắn người trong trấn. Chúng bắn rất chuẩn, gần như mỗi phát là một người gục xuống hoặc bật ngửa, trên đường cũng như trong sân. Quân Thanh cầm đuốc đốt nhà ông. Lúc đầu khói đùn lên như một cái cây vươn thẳng lên trời, tiếp theo là đám lửa phừng phừng màu vàng kim. Ngọn lửa reo phần phật, nổ ran như pháo tép. Đột nhiên trời nổi gió to, khói lửa ngả nghiêng hết ĐSng tây, mùi khét, mùi bụi đất bay tới trước mặt ông.
Chuyện càng kinh khủng hơn đã xảy ra. Ông trông thấy lính Đức giằng kéo vợ ông đến quần áo rách bươm, cuối cùng, vợ ông không còn mảnh vải che thân… Ông đập trán vào cành cây đến tóe máu, miệng cắn ngập vỏ. Trái tim ông như quả cầu lửa bay sang bờ bên kia, còn cơ thể ông thì như trói chặt vào thân cây, cứng đờ như đã chết. Người Đức cầm tay chân đánh võng cái cơ thể trắng phau của vợ ông rồi lẳng xuống dòng sông Mã Tang, không một tiếng động, nước sông im lặng tung bọt trắng, vợ ông chìm ghỉm. Cuối cùng, lính Đức dùng lưỡi lê xộc hai con ông cũng quẳng xuống sông. Trước mắt ông toàn một màu máu, ông như bị ma ám trong cơn ác mộng, lòng như lửa đốt, tay chân cứng đờ. Ông cố sức vùng vẫy, cuối cùng bật ra được một tiếng kêu, cơ thể được giải phóng. Ông cố sức chồm lên làm gãy mấy cành cây, rồi nặng nề rơi xuống cát ẩm.
23
Ông mở mắt, thấy tia nắng lọt qua một chạc cây, rọi xuống. Cảnh tượng mà ông mục kích trên cây, lại thoáng hiện trong đầu, nỗi đau của ông chẳng khác con trâu lúc bị thiến, rúm người lại. Từ giờ phút này trở đi, trong tai ông ầm ầm như tiếng gõ cấp tập của trống và thanh la, y như màn dạo đầu của một vở Miêu Xoang. Tiếp theo là tiếng dài lê thê của sáo và kèn bầu, mở đường cho dàn miêu cầm liên miên bất tận những điệp khúc. Những âm thanh làm bạn với ông suốt nửa đời người, giúp ông thuần hóa nỗi đau sắc nhọn trong tim, như gạt đi mỏm nhọn của núi cao, lấp bằng vực sâu nghìn trượng, biến nỗi đau thành cao nguyên mênh mông. Từng đàn chim thước bay lượn rất kịch tính, đệm cho cho dàn nhạc trong lòng ông. Chúng như những cụm mây nhỏ có màu lam của ngói lưu ly, nhẹ nhàng bay lượn. Còn như tiếng mổ cốc cốc không mệt mỏi của con chim gõ kiến thì đúng là nhịp phách, cầm trịch tiết tấu của bản nhạc. Tơ liễu phất phơ trước làn gió nhẹ, y như bộ râu đẹp của ông khi xưa…
Tui tui tui cầm ngược cây côn… mình giắt yêu đao sắc như nước… đi một bước kêu trời… đi hai bước hận đời… Tui tui tui bước gấp, đường mòn heo hút còn xa lắc…
Tiếng hát bi phẫn dội lại trong tim ông. Ông vịn cây, đứng lên một cách khó nhọc, đầu lắc lư, chân đập đập…
Tang tang tang tang tang tang… tang bụp tang bụp tang bụp… tang! Tôn Bính tui ngó về quê nhà phương bắc, cuồn cuộn khói đen che kín nửa trời. Vợ tui nàng nàng nàng chôn thây bụng cá, các con tui… thảm lắm trời ơi… một gái một trai mệnh táng suối vàng… Đáng hận thay, bọn giặc tóc trắng mắt xanh, độc như rắn rết, táng tận lương tâm, giết người vô cớ, khiến tui tan cửa nát nhà, thân đơn bóng chiếc… Tui tui tui… thảm lắm trời ơi…
Tôn Bính chống cây gậy gỗ táo đã gây tai họa cho ông, loạng choạng ra khỏi rừng liễu… tui tui như con nhạn lạc đàn, như hổ xuống đồng bằng, như rồng mắc cạn trong vũng hẹp… Ông giơ cây gậy lên, vụt đông vụt tây, vụt nam vụt bắc, những cây liễu bị đáng đến tróc vỏ, cả đàn cây bật khóc hu hu…. Bớ giặc Đức, ngươi ngươi ngươi giết vợ giết con tui, ác như loài thú… thù sâu như biển này, tui quyết báo… tang tang tang tang tang tang… thù này không báo, không làm người… Ông vung cây gậy, loạng choạng nhảy xuống sông Mã Tang, nước sông ngập ngang bụng. Tháng Hai tuy băng tan, nhưng vẫn buốt thấu xương. Vậy mà ông không cảm thấy, ngọn lửa báo thù thiêu đốt trái tim ông. Ông lội nước rất khó khăn, nước như bọn lính Tây ngăn trở ông, níu kéo ông. Ông tả hữu đột, vụt mặt nước lia lịa…bốp bốp bốp bốp bốp, mặt nước tung tóe, bọt bắn tứ tung… như hỗ giữa đàn dê… nước bắn lên mặt ông, tối mắt tối mũi, một màu xám nhạt, một màu đỏ như máu… Xông vào nơi hang hùm ổ rắn, giết một lèo máu chảy thành sông, tui tui tui giữ sổ Nam tào, lấy mạng chúng bất kể khi nào… Ông bò cả tay lẫn chân lên mặt đê, quì xuống sờ vết máu chưa khô trên mặt đất… Kiều nhi ơi Kiều nhi, nàng đã xuống suối vàng, tui đứt từng khúc ruột… tui choáng mày choáng mặt, tui trời đất quay cuồng, tui tóc tai dựng ngược… Tay ông dính đầy máu và bùn đất. Ngôi nhà đang cháy dở, nóng hầm hập. Tro bay đầy trời. Ông thấy ngọt mặn đắng cay ở họng, cúi xuống nôn ra một bụm máu tươi.
Hai mươi bảy sinh mạng của trấn Mã Tang bị tàn sát. Mọi người khiêng xác lên mặt đê, đặt thành hàng, đợi quan huyện về khám. Ông hai Trương nhờ cậy mấy thanh niên xuống sông mò vớt xác Đào Hồng cách đó năm dặm và xác bé Bảo, bé Vân, lên bờ, để cùng chỗ với xác người trong trấn. Người ta đáp cho vợ ông cái áo rách lên người, cặp chân trắng nõn duỗi thẳng, thảm quá! Tôn Bính nhớ lại những vai nữ tướng mà vợ mình đã sắm, trên đầu cài lông chim trĩ, lưng giắt thanh bảo kiếm, chân đi giày thêu, mũi giày đính quả hồng nhung to bằng nắm tay, tay áo phất phơ, dáng đi uyển chuyển, mặt tựa hoa đào, eo như cành liễu, tiếng oanh thỏ thẻ, cái nhìn đắm say… Vợ của tui, nào ai ngờ mưa gió dập vùi, sao chịu nổi gió sao sương kiếm, tui tui tui huyết lệ chảy tràn… Kìa ma8tt trời đã ngả về tây, vầng trăng sớm treo cao, mục đồng ca bi tráng, tiếng quạ gọi đêm về… thanh la xủng xoảng, đòn kiệu lắc lư, kìa tri huyện Cao Mật đã tới…
Tôn Bính trông thấy ông lớn Tiền khom người chui ra khỏi kiệu. Tấm lưng cánh phản của ông vốn luôn luôn thẳng đuỗn, nay gập xuống một cách kỳ quặc. Bộ mặt vốn tươi tắn, nay co giật đáng sợ. Bộ râu vốn mượt như lông đuôi ngựa, nay rối bù khó coi. Cặp mắt vốn tinh nhanh sắc sảo, nay tối rầm, chậm chạp lừ đừ. Hai tay ông không biết làm gì, lúc nắm lại, khi thì vỗ trán. Mấy lính thị vệ đeo vũ khí, thận trọng bám sát ông lớn, không rõ bảo vệ ông hay giám sát ông. Ông xem xét từng thi thể trên đê, khi ấy, mọi người yên lặng nhìn ông. Ông đưa mắt nhìn bao quát đám đông đứng im như thóc mục, lập tức mồ hôi trên đầu ướt đẫm tóc. Cuối cùng, ông chấm dứt những bước chân hoang mang. Lấy ống tay áo thấm mồ hôi. Ông nói:
– Các vị phụ lão và bà con, các vị phải kiềm chế…
– Thưa ông lớn, ông lớn định liệu cho chúng con… – những người dân gào khóc, quì cả xuống, đen ngòm một mảng.
– Bà con mau đứng dậy! Xảy ra thảm án này, bản quan lòng như dao cắt, nhưng người thì chết thì không thể sống lại, các vị hãy chuẩn bị áo quan, khâm liệm, chôn cất cho họ mồ yên mả đẹp…
– Lẽ nào người nhà chúng con chết oan uổng như vậy sao? Chẳng lẽ cứ để bọn giặc Tây hoành hành như vậy sao?
– Bà con, nỗi đau của các vị cũng là nỗi đau của ta – Tri huyện nước mắt lưng tròng – Cha mẹ của các vị cũng là cha mẹ của bản quan. Con cái của các vị cũng là con cái bản quan. Vạn lần mong các vị bình tĩnh, đừng nóng vội, không thể cứ ý mình mà được việc. Ngày mai bản quan lên tỉnh xin gặp Tuần phủ đại nhân, nhất định phải làm cho ra nhẽ.
– Chúng con khênh xác lên tỉnh!
– Không nên, không nên, quyết không nên – Ông lớn vội ngăn – Các vị hãy tin ở ta, bản quan sẽ dùng lý lẽ mà ra sức tranh đấu, dù phải trả giá bằng cái mũ đầu trên đầu!
Trong khi dân chúng kêu gào thảm thiết, Tôn Bính trông thấy ông lớn Tiền len lén đi tới, ấp úng bảo ông:
– Tôn Bính, phiền ông đi cùng bản quan một chuyến.
Tiếng nhạc hồi vọng trong lòng Tôn Bính, đột nhiên chuyển sang cao trào như trời long, như đất lở, âm thanh cao vút. Lông mày dựng ngược, mắt tròn như mắt hổ, ông giơ cao cây gậy gỗ táo…
Hỗi tên quan chó má, ngươi đạo mạo mà chỉ giỏi giả vờ, ngươi nói rằng vì dân tranh đấu, nhưng rõ ràng ngươi đánh lừa ta, ngươi bắt ta nộp trên lĩnh thưởng! Ngươi làm quan mà không lo cho dân, cam tâm tiếp tay cho giặc. Vợ con ta chết oan chết khốc, không báo thù ta sống bằng thừa! Dù cho ngươi hai bằng tiến sĩ, dù cho ngươi có là Hoàng đế, ta chẳng coi ngươi là đáng kể! Ta xắn tay áo, ta xoa bàn tay, ta liều thân như chẳng có, ta quyết đập chết màu… Nhằm đầu quan lớn Tiền giáng mạnh… Chà chà chà, rụng đầu chẳng qua là vết thương bằng miệng bát. Đập chết ngươi, tên tri huyện giúp hổ cắn người… Quan huyện Tiền nhanh nhẹn né tránh, Tôn Bính đập hụt. Các nha dịch thấy ông lớn gặp nguy, múa đao xông tới định bắt Tôn Bính. Tôn Bính gầm lên, chẳng khác con thú bị trọng thương, mắt tóe lửa. Đúng là một người liều mạng, nghìn người khó đánh lại. Công chúng đồng loạt ra tay, lửa giận ngất trời. Tôn Bính múa cây gậy vù vù, một nha dịch bị quật ngang lưng, lăn lông lốc xuống chân đê. Quan huyện Tiền ngửa mặt than rằng:
– Hừ, bản quan tốn bao tâm cơ, xin có trời xanh chứng giám! Bà con nông dân, chuyện này liên quan đến người Tây, nhất thiết không được manh động. Tôn Bính, ông tránh được mồng một, nhưng không tránh khỏi ngày rằm, hãy giữ mình cho cẩn thận!
Quan huyện Tiền được các nha dịch bảo vệ, chui vào kiệu. Cỗ kiệu chuyển động, các phu kiệu chạy như bay, chân không bén đất, cả đoàn người bị màn đêm nuốt chửng. Đêm ấy, trấn Mã Tang thức trắng. Đây đó vang lên tiếng gào khóc của phụ nữ, tiếng đóng áo quan, cho đến khi trời sáng. Ngày hôm sau, họ giúp nhau khâm liệm, chôn cất người chết, các quan tài nhất loạt dùng đinh đóng nắp.
Chôn cất người chết xong xuôi, mọi người đâm ra ngơ ngác, y như tỉnh dậy sau cơn ác mộng. Mọi người tụ tập trên đê, nhìn về phía lều trại đường sắt. Nền đường cao to đã đến Liễu Đình, thôn tận cùng phía đông vùng Đông Bắc Cao Mật, cách trấn Mã Tang chỉ sáu dặm. Phần mộ tổ tiên bị đè bẹp, con kênh tiêu úng bị san lấp, phong thủy ngàn năm bị phá hoại, huyền thoại về cắt đuôi sam bắt linh hồn, sống động bày ra trước mắt, cái đầu của con người không được bảo vệ. Quan phụ mẫu chỉ là chó săn của người Tây, cuộc sống khốn khổ của quần chúng sắp tới gần. Chỉ một đêm mà tóc Tôn Bính bạc trắng, mấy sợi râu còn sót biến thành cỏ khô, sợi rụng sợi gãy. Ông kéo lê cây gậy gỗ, nhảy nhót trên đường như một võ sinh dở người. Mọi người nhìn ông thông cảm, cho rằng tinh thần ông không bình thường. Không ngờ ông cực kỳ thông minh khi nói những lời sau đây:
– Thưa bà con, Tôn Bính tui đánh chết tên kỹ sư Đức, tai họa này liên lụy đến mọi người, tui xấu hổ lắm, tui sợ lắm! Các vị hãy trói tui nộp cho quan huyện Tiền Đinh, để ông ta nói chuyện tình cảm với người Đức. Chỉ cần họ đồng ý thay đổi tuyến đường, Tôn Bính có chết cũng không oán hận.
Mọi người đỡ ông dậy, năm người mười câu khuyên can:
– Ông Bính ơi ông Bính, ông là hảo hán, đáng mặt nam nhi, không sợ quan không sợ Tây, ông là anh hùng. Tuy họa Mã Tang là do ở ông, nhưng chuyện này khó lòng tránh khỏi. Xảy ra muộn chẳng bằng xảy sớm. Bọn giặc mà làm xong đường sắt, cuộc đời ta cũng khó yên lành! Nghe nói con rồng ấy nó núi rung đất chuyển, nhà cửa ta chắc chắn tan tành. Nghe đâu phủ Tào Châu có Nghĩa hòa quyền, cùng giặc Tây một mất một còn. Ông hãy trốn đi Tào Châu phủ, đưa về các viện binh, chấn hưng Trung Hoa, diệt giặc Tây dương, cứu chúng sinh!
Mọi người góp tiền, đưa Tôn Bính lên đường ngay trong đêm. Tôn Bính mắt ngậm lệ mà hát rằng:
Ơi bà con, đẹp không đâu đẹp bằng quê hương, thân không đâu thân bằng tình cố hương. Tôn Bính tui rụng hết răng vẫn không quên ơn đức, không mời được viện binh, tui quyết không về!
Quần chúng hát rằng:
Hãy giữ mình, đường xa dặm thẳm, hãy giữ cho tỉnh táo cái đầu! Bà con sẽ ngửa cổ ngóng trông, mong cho ngày viện binh về tới!
Hai mươi ngày sau. Buổi chiều. Tôn Bính mặc áo dài trắng, ngoài khoác áo giáp trắng, sau lưng cài sáu lá cờ lệnh, trên mũ đính quả tú cầu lụa bằng nắm tay, mặt tô màu đỏ chu sa, lông mày vẽ xếch ngược, chân đi ủng đế cao, tay cầm gậy gỗ táo, ba bước lại rung gậy một cái, trở về trấn Mã Tang. Theo sát nút ông là hai hổ tướng, một người tầm thước, chân tay nhanh nhẹn, quần da hổ, đầu đội kim cô, tay cầm gậy như ý, giọng choe chóe, chạy nhảy lung tung, trông giống như Tề thiên đại thánh Tôn Ngộ Không. Vị thứ hai bụng phệ, khoác áo thụng đen, đầu đội mũ tì lư, tay cầm đinh ba đảo phân. Chẳng nói cũng biết đó là Thiên Bồng nguyên soái Trư Ngộ Năng.
Đoàn ba người nay xuất hiện trên đê Mã Tang đúng lúc ánh nắng lọt qua kẽ mây rọi lên người họ. Họ áo quần sặc sỡ, hình dung cổ quái, y hệt thiên bình thiên tướng từ trên mây nhảy xuống. Người đầu tiên trông thấy họ là cậu cả Ngô. Cậu cả Ngô không nhận ra Tôn Bính. Tôn Bính cười với cậu, khiến cậu không hiểu ra sao, sau đó sợ run lên. cậu nhìn theo ba con quái vật đi vào cửa hiệu bán bếp lò ở đầu phía tây của thị trấn rồi không thấy đi ra.
Lúc hoàng hôn, dân phố theo thói quen, bê bát cháo ra đường ăn. Cậu cả Ngô chạy từ đầu ĐSng đầu tây con đường lớn, thông báo tin yêu quái xuất hiện ở trấn. Cậu cả Ngô vốn hay trên mây dưới gió, nên mọi người chỉ nửa tin nửa ngờ, nghe thì nghe, nhưng chỉ coi như dấm ớt trong bữa cơm. Lúc này đầu phía tây thị trấn bỗng nổi thanh la, thấy Tư Hỉ, người giúp việc ông thợ bếp lò, đội tấm da mèo đen, vẽ mặt con linh miêu trên mặt, nhanh nhẹn chạy ra, cái đuôi mèo vung vẩy sau gáy. Anh ta vừa gõ thanh la vừa hét to:
– Tôn Bính rất phi thường, học được Tào Châu Nghĩa hòa quyền. Dẫn về Tôn, Trư hai đại tiên. Phá đường sắt, giết Hán gian, đuổi giặc Tây cho dân bình an. Đêm đêm tập luyện Nghĩa hòa quyền, địa điểm tại đầu cầu, trẻ già nam nữ đều đến tập, ai ai cũng học Nghĩa hòa quyền. Học được Nghĩa hòa quyền, gươm đao không dính thân, sống lâu và sống khỏe. Học được Nghĩa hòa quyền, bốn bể là anh em, ăn cơm không mất tiền. Học được Nghĩa hòa quyền, Hoàng thượng phải chiêu an, một khi đã chiêu an, ai cũng làm đại quan, vợ con hưởng phú quí, được chia ruộng cấp lương…
– Thì ra là Tôn Bính! – Cậu cả Ngô sững người – Chả trách trông rất quyen, lại còn cười với mình nữa!
Cơm tối xong, chỗ đầu cầu đốt một đống lửa trại, sáng nửa bầu trời. Mọi người tụ tập quanh đống lửa với tâmtrạng tò mò cao độ, đợi Tôn Bính biểu diễn Nghĩa hòa quyền.
Trước đống lửa kê một chiếc bàn bát tiên, trên bàn đặt bát hương, trong bát cắm ba nén hương. Hai bên bát hương là hai giá nến, mỗi giá cắm một cây nến đại màu đỏ, làm bằng mỡ cừu. Aùnh nến bập bùng càng tăng vẻ huyền bì. Lửa cháy rực, nổ tí tách, nước sông phản chiếu lửa trên bờ, lăn tăn những vẩy bạc.
Cửa hàng của ông thợ đắp lò, cửa vẫn đóng im ỉm. Mọi người sốt ruột, có người gọi:
– Tôn Bính, Tôn Bính, mới xa nhau có mấy hôm mà đã không nhận ra nhau sao? Ỡm ờ gì ma với quỉ? Mau ra biểu diễn thần quyền của ông cho bọn tui xem nào!
Tư Hỉ lách qua cửa ra ngoài, nói nhỏ:
– Đừng ồn, các vị đang uống bùa.
Cửa quán bỗng mở rộng y hệt một con thú há miệng. Đám người đứng im như phỗng, mắt mở to, ngóng Tôn Bính và hai vị đại tiên chẳng khác ngóng diễn viên ra sân khấu. nhưng Tôn Bính vẫn chưa ra. Im lặng, im ắng đến nỗi nghe thấy nước chảy dưới chân cầu, ngọn lửa phần phật như cờ bay trước gió. Mọi người đang đợi thì chợt nghe vút lên giọng nam cao của làn điệu Miêu Xoang, cao và hơi rè nên càng hấp dẫn:
Trả thù sâu nên phải xa quê…
Giọng hát cao từng cung bậc như các đốt của cây trúc, cao đến chín tầng mây, từ từ xuống thấp, rồi đột nhiên lại vút lên cao, cao cao mãi, đến nỗi không thể nghe thấy gì nữa. Tiếng thanh la của Tư Hỉ dồn dập, không tiết tấu, không giữ nhịp. Cuối cùng, Tôn Bính xuất hiện. Ông vẫn ăn mặc như ban ngày: áo bào trắng, mũ bạc, mặt đỏ, mày xếch, ủng đế cao, cậy gậy cầm ngược. Theo sát ông là Ngộ Không và Bát Giới. Tôn Bính chạy kiểu chạy đàn tràng quanh đống lửa, gần như không nhấc chân khỏi mặt đất, trên cơ sở vũ đạo cua kịch nghệ, bổ sung công phu của võ nghệ, nên bước chân càng thoăn thoắt, như hành vân lưu thủy. Rồi thì đấm đá, lắc mình, nhào lộn, cuối cùng là động tác ra mắt đầy kịch tính, hát tiếp:
… Tại phủ Tào Châu học Nghĩa hòa quyền, các lộ thần tiên đều về hỗ trợ, bọn Tây dương không thể sống còn. Lúc chia tay, đại soái dặn dò, lập thần đàn tại quê ta Cao Mật, truyền thụ nhân quyền, luyện tập võ nghệ, nhân tâm một mối, bẩy được Thái Sơn. Biệt phái sư huynh hai hộ pháp, chân tiên hạ phàm chính hai ông…
Khi hát điệu Miêu Xoang trên, Tôn Bính bị quần chúng coi thường ngay. Thần quyền ở đâu mà thần quyền, vẫn là bình cũ rượu cũ! Tôn Bính vòng tay thi lễ:
– Thưa các vị láng giềng hàng xóm, người anh em lần này đến Tào Châu bái kiến đại sư huynh Chu Hồng Đăng. Nghe tin giặc Đức làm con đường sắt vắt qua vùng Đông Bắc Cao Mật giết hại người vô tội, đại sư huynh lửa giận cành hông. Đại sư huynh vì nghĩa quên thân, những muốn dẫn thần binh, thân chinh đánh Đức, nhưng ngặt nỗi quân vụ nặng nề, không dám bỏ cho ai. Đại sư huynh bèn truyền thụ cho tui thần quyền tâm pháp, lệnh cho tui trở về thiết lập thần đàn, dạy thần quyền, đánh đuổi Tây dương khỏi Trung nguyên. Hai vị đây là Hầu nhị ca và Trư tam ca, có thần lực dao đâm không thủng, đạn bắn không vào, đợi lát nữa biểu diễn các vị xem. Tiếp theo đây, tui biểu diễn một lượt, âu cũng là thi triển tài mòn để đại sự thành!
Tôn Bính đặt cây gậy xuống, lấy từ bao hành lý của Tôn Ngộ Không một tệp giấy màu vàng, đốt một tờ. Tờ giấy cháy trên tay ông, tàn tro theo dòng khí lưu của đống lửa trại, bay lên theo đường xoắn ốc. Xong xuôi, Tôn Bính quỳ trước hương án, kính cẩn lạy ba lạy. Sau đó, lấy trong túi đựng hành lý của ông một đạo thần phù, đem đố trong một cái bát màu đen. Ông rót nước từ hồ lô đeo bên mình vào bát, lấy đôi đũa mới tinh khuấy tan tro, đặt bát lên hương án, rồi lại quỳ xuống lạy ba lạy, rồi vẫn quỳ, hai tay bê bát uống cạn một hơi, uống xong lại lạy ba lạy, rồi lim dim mắt đọc thần chú, mọi người nghe câu được câu chăng, những lời hàm hồ không rõ nghĩa. Giọng ông lên bổng xuống trầm, du dương thánh thót, liên miên bất tậm. Dài dặc như chức cẩm hồi văn, khiến quần chúng hai mắt lim dim, ngáp ngắn ngáp dài, ngủ gà ngủ gật. Bỗng ông thét lên một tiếng, méo sùi bọt trắng, toàn thân co giật, ngã ngửa ra sau. Mọi người bừng tỉnh, định chạy lên cứu, nhưng Ngộ Không và Bát Giới ngăn lại.
24
Mọi người chỉ chờ trong giây lát, Tôn Bính đã vọt lên như cá chép vượt vũ môn, cơ thể cao to nặng nề của ông nhẹ nhàng bay lên cao ba thước, rồi từ từ hạ xuống. Mọi người đều không lạ gì tài năng của ông, chỉ là anh kép hát nghiệp dư, nhào lộn dăm cái trên sân khấu đã thở phì phò, nay thấy ông trổ tài khinh công trác tuyệt, tất thảy đều trố mắt, lạ lùng hết sức. Qua ánh lửa, mọi người thấy mắt ông phóng ra những tia thần bí, khuôn mặt đỏ au cũng mang sắc thái thần tiên, vừa quen vừa lạ. Ông mở miệng, những người quen nghe giọng ông, thấy ngay đây là giọng của người khác, rành rọt, âm vang, lẫm liệt:
… Mỗ đây đại nguyên soái, họ Nhạc tên Phi, tự Bằng Cử, người Thang âm, Hà Nam…
Quần chúng thót tim, chẳng khác quả táo đỏ treo trên cành mềm, đung đưa đung đưa, rồi bình ổn rơi xuống, vang lên tiếng đá tiếng vàng.
– Đại nguyên soái Nhạc Phi.
– Nhạc Vũ Mục nhập hồn.
Trong đám quần chúng có một người quì xuống, mọi người nhất loạt quì theo, chỉ thấy Tôn Bính, người được đại nguyên soái nhập hồn, xoay tít quanh đống lửa, đá song phi, nhẹ nhàng, uyển chuyển. Thân hình lúc vươn cao lúc cúi thấp, cờ soái sau lưng bay phấp phới, giáp bạc trên người lấp lánh như sao. Tôn Bính lúc này không phải là người trần, là con giao long giữa con người. Thôi múa, ông vung cây gậy như vung ngọn giáo bạc, đâm trái gạt phải, đỡ trên, tránh dưới, như mãng như sà, quần chúng hoa cả mắt, tâm phục khẩu phục, dập đầu lạy như tế sao. Ông thu cây gậy, cất giọng kim mà hát rằng:
Hận thay nước mất, mười hai đạo kim bài, ba quân cùng gào thét, Hoàng Hà cuồn cuộn chảy về xuôi!… Khá thương thay, chúng phụ lão trong cảnh nước sôi lửa bỏng, đáng than van thánh chúa chửa hồi triều! Rỡ Hồ phía bắc khi nào sạch, nghiến răng căm uất lũ quyền gian! Căm hờn chất chứa cùng ai tỏ, nuốt kiếm mà than thấu tận trời!
Mỗ, tên Nhạc Bằng Cử, nay phụng mệnh Thiên đế giáng linh thần đàn, nhập vào Tôn Bính, truyền thụ võ nghệ cho các người, quyết một trận tử chiến với Tây dương. Tôn Ngộ Không đợi lệnh!
Sư huynh sắm vai Ngộ Không tiến lên một bước, quì một chân, nhí nhảnh:
– Có mạt tướng.
– Bổn soái ra lệnh cho ông dẫn mười tám Hầu côn, diễn tập để dân chúng xem.
– Xin tuân lệnh.
Tôn Ngộ Không xiết chặt quần da hổ, giơ tay vuốt mặt. Sau khi vuốt, như đeo mặt nạ, khuôn mặt hoàn toàn thay đổi, linh lợi, sống động, nháy mắt chau mày đúng như khỉ. Mọi người rất buồn cười mà không dám cười. Hầu vương thay đổi nét mặt xong, lộn một vòng tại chỗ. Mọi người ồ lên tán thưởng. Được khen, Hầu vương càng hăng, ném mạnh cây gậy Như ý lên trời, tung mình nhào theo, lộn liền hai cái trên không rồi vững vàng tiếp đất không một tiếng động, vươn tay đón cây gậy Như ý vừa vặn rơi xuống. Một chuỗi những động tác kế tiếp nhau, không sai lệch nửa phân, chính xác gần như tuyệt đối. Mọi người vỗ tay như điên. Hầu vương thi triển côn thuật trong tiếng vỗ tay, dưới ánh lửa trại, người nhu rồng cuốn, côn như rồng bay. Đâm, vụt, gạt, quét, thọc, đón, đỡ, quat, chiêu nào cũng tinh thông, chiêu nào cũng đẹp mắt. Tiếng gậy vù vù, bóng gậy loang loáng. Cuối cùng, Hầu vương trồng gậy đứng thẳng trên mặt đất, cất mình nhảy lên đứng một chân trên đầu gậy theo thế kim cô độc lập, tay che ngang mày như khỉ nhìn xa. Rồi, lộn một vòng ra phía sau, nhẹ nhàng tiếp đất, vòng tay chào công chúng, không thở dốc, không ra mồ hôi, ung dung thư thái, thật không bình thường. Công chúng vỗ tay hoan hô.
– Giỏi quá!
Nhạc nguyên soái lại ra lệnh:
– Bát Giới nghe lệnh.
Anh ba Bát Giới ngất ngưỡng chạy tới, giọng ồm ồm:
– Có mạt tướng.
– Bổn soái lệnh cho ông biểu diễn mười tám bài đinh ba thuật cho dân xem.
– Mạt tướng tuân lệnh.
Bát Giới kéo lê đinh ba, ngơ ngẩn cười khí với đám đông, y như anh ngố dùng đinh ba đảo phân. Mọi người cũng thấy vũ khí của Bát Giới chính là cây đinh ba bình thường dùng để đảo phân, nhà nào cũng có, ai cũng biết sử dụng. Bát Giới kéo lê đinh ba lượn một vòng, lượn một vòng nữa, rồi lại một vòng nữa. Dân chúng đã bắt đầu ngán, lại vừa buồn cười, bụng nghĩ, cái ông Bát Giới này sao cứ lượn vòng mãi? Sau ba vòng, Bát Giới quẳng cây đinh ba, bò vòng quanh bằng bốn chân tay, vừa bò vừa hộc lên như con lợn nái bới cái ăn. Cuối cùng, dân chúng không nhịn được bật cười ha hả. Nhìn Nhạc nguyên soái, thấy ông vẫn đứng yên, nghiêm trang lẫm liệt, uy nghi như một pho tượng đá. Quần chúng lại đoán già đoán non:
– Có lẽ tuyệt chiêu là ở phần cuối.
Quả nhiên, Bát Giới sau ba vòng bắt chước lợn dũi đất, hai chân hai tay bò nhanh như bay, nhanh hơn cả lợn thật. Bò được mấy vòng, bắt đầu cuộn người chợt đứng thẳng lên, cây đinh ba đã trong tay từ lúc nào. động tác của Bát Giới trông có vẻ vụng, nhưng người có nghề thấy sự tinh diệu nằm trong cái vụng, từng chiêu từng thức đều đúng chỗ. Quần chúng vỗ tay hoan hô.
Nhạc nguyên soái nói:
– Các vị hương thân nghe đây, bổn soái phụng mệnh Ngọc hoàng đại đế, chấp thưởng thần đàn, tụ tập dân chúng luyện quyền, bất nhật sẽ cùng Tây dương khai chiến. Bọn Tây dương là hóa thân của bọn lính Kim. Bọn lính Tây có súng Tây, pháo Tây cực kỳ lợi hại, nếu các người không luyện tập võ nghệ thì làm sao đương nổi? Thượng đế sai bổn soái chuyển thần quyền cho các người, luyện được thần quyền, dao đâm không thủng, lửa đốt không cháy, rắn như kim cương cũng không thể xuyên thủng. Các vị thích học thầy nào?
Quần chúng hoan hô:
– Thích được Nhạc nguyên soái điều khiển.
Nhạc nguyên soái gọi:
– Tôn, Ngô hai tướng nghe lệnh!
– Mạt tướng nghe lệnh.
– Mạt tướng nghe lệnh.
Nguyên soái nói:
– Lệnh cho hai tướng quân biểu diễn cho mọi người xem thần quyền Kim Chung Chao.
– Tuân lệnh – Tôn, Trư hai người đồng thanh đáp lời.
Nhạc nguyên soái đích thân đốt hai đạo bùa, lệnh Tôn, Ngô hai tướng uống cạn. Sau đó, nguyên soái hai tay bắt quyết, miệng niệm chân ngôn, lần này Người đọc rõ ràng, như cố ý để mọi người học thuộc:
… Kim Chung Chao, áo sợi thép, nhất nhất qui thuộc Nghĩa hòa quyền. Nghĩa hòa quyền, đầu đội trời, uống kinh phù thành Thiết Tiên. Thiết Tiên là ông Tiên thép, tọa lạc đài sen thép, đầu thép, lưng thép, lều trại thép, súng đạn không sao bắn trúng người…
Niệm thần chú xong, Nguyên soái tợp một ngụm nước lã phun vào người Tôn Ngộ Không, rồi tợp ngụm nữa phun vào người Trư Bát Giới. Nguyên soái nói:
– Xong rồi, luyện đi!
Tôn Ngộ Không vận khí, chỉ vào đầu. Trư Bát Giới vung bồ cào, nhằm đầu Tôn Ngộ Không bổ xuống. Tôn Ngộ Không rướn cổ lên đỡ, đầu không xây xát mảy may.
Trư Bát Giới vận khí xuống bụng, Tôn Ngộ Không vung cây gậy như ý, nhằm bụng Trư Bát Giới vụt một gậy. Một lực phản hồi cực mạnh, đẩy bật Ngộ Không trở lại. Trư Bát Giới xoa bụng, cười hề hề.
Nguyên soái nói:
– Ai chưa tin, mời lên thử.
Một anh chàng lỗ mãng họ Dư tên Kim rất khỏe, từng đấm ngã trâu, nhặt viên gạch vỡ, nhảy lên, đập mạnh vào đầu Tôn Ngộ Không. Gạch vỡ, đầu không hề gì. Dư Kim bảo Tư Hỉ vào trong quán lấy ra con dao thái rau, hỏi Nguyên soái:
– Thưa Nguyên soái, được chứ?
Nguyên soái cười mỉm, không nói gì.
Trư Bát Giới gật đầu ra hiệu.
Du Kim vung dao lên, hết sức bình sinh chém vào bụng Trư Bát Giới, chỉ nghe “chát” một tiếng như chém vào sắt thép, bụng Bát Giới xuất hiện một vết trắng, còn con dao thì quăn hết lưỡi.
Lúc này quần chúng mới phục sát đất, nhao nhao đề nghị học quyền thuật. Nguyên soái nói:
– Cái hay nhất của thần quyền là học nhanh, ngay dù sức trói gà không chặt, chỉ cần thành tâm là linh nghiệm. Uống bùa thì thần linh nhập và người, cầu thần linh nào, có thần linh ấy. Thích Hoàng Thiên Bá có Hoàng Thiên Bá, thích Lã Động Tân, có Lã Động Tân. Thần linh đã nhập vào người thì trở nên võ nghệ cao cường, sức mạnh vô cùng. uống thêm một đạo bùa chú, thân thể rắn như kim cương, dao chém không đứt, nước thấm không vào. Cái hay của Nghĩa hòa quyền không để đâu cho hết, tiến quân phá địch, rút quân an toàn.
Quần chúng đồng thanh hoan hô:
– Xin bái Nguyên soái làm tướng!
Mười ngày sau. Tiết thanh minh. Buổi sáng trong mưa phùn, Tôn Bính cắt đặt mọi việc, tập hợp đội ngũ vừa được huấn luyện, đi tấn công lều trại của bọn Đức.
Mười ngày, cả ban ngày lẫn ban đêm, ông cùng hai Hộ pháp Tôn, Trư lập thần đàn bên đầu cầu, không quản mệt nhọc vẽ bùa niệm chú, luyện thuật tránh súng đạn, gươm giáo. Đàn ông khỏe mạnh trong trấn đều gia nhập thần đoàn, lạy thần đàn, luyện thần quyền. Những thôn lân cận đều vác lương thực đến tự nguyện tham gia. Mộc Độc, chàng chăn dê bên bờ nam sông Mã Tang và anh chàng lỗ mãng Dư Kim trở thành tùy tùng tin cậy của Tôn Bính. Độc Mộc đội tên mã tiền Trương Bảo, Dư Kim đội tên mã hậu Vương Hoành. Hôm tập quyền, mỗi người đếu lấy cho mình tên của một vị thần tiên hoặc một anh hùng hào kiệt mà mình kính phục: Nhạc Vân, Ngưu Cao, Dương Tái Hưng, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung, Lý Quì, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm, Thổ Hoành Tôn, Lôi Chấn Tử, Khương Thái Công, Trình Giảo Kim, Trần Thúc Bảo, Uất Trì Kính Đức, Dương Thất Lang, Hồ Diên Khánh, Mã Lương, Tiêu Tán… tóm lại, những nhân vật trong kịch, những anh hùng trong sách vở, những ma quỉ trong truyền thuyết, đếu xuất động, hạ sơn, hóa phép thần thông, nhập vào dân trấn Mã Tang. Tôn Bính cũng mang tên trung thần Nhạc phi, một danh tướng chống Kim lừng lẫy, tập hợp anh em hào kiệt trong thiên hạ, ai cũng có lòng trung nghĩa, người nào cũng võ nghệ tuyệt luân, chỉ mười ngày luyện được tấm thân sắt thép, quyết so tài cao thấp với quân Đức.
Uy tín Nhạc nguyên soái lên cao, nhất hô bách ứng. Bộ hạ dưới quyền có tám trăm chiến tướng. Ông còn tích cực vận động phụ nữ nhuộm vải đỏ may khăn và thắt lưng. Ông thiết kế một lá cờ đỏ như lửa, thêu chòm sao Bắc Đẩu. Ông chia tám trăm người thành tám Đội, mỗi Đội chia mười Ban. Đội có Trưởng, Ban có Đầu. Đầu Ban chịu sự chỉ huy của Đội trưởng, Đội trưởng chịu sự chỉ huy của Hộ pháp, Hộ pháp chịu sự chỉ huy của Nguyên soái.
Mờ sáng hôm tết thanh minh, Nhạc nguyên soái và hai Hộ pháp bày hương án ở đầu cầu, dựng cờ có chữ “Soái”. Khăn và thắt lưng thì đã phát từ hôm trước. Lệnh tập hợp lúc gà gáy ba bận cũng đã phố biến. Phụ nữ các nhà nửa đêm dậy làm cơm. Cơm gì mà cơm? Nhạc nguyên soái có lệnh: Hôm nay đi tác chiến, phải ăn ngon chút đỉnh, bánh thì bánh mì trắng, trứng thì phải trứng tráng, đàn ông đi đánh giặc, phải ăn bụng no căng. Nguyên soái ra lệnh, để ăn được ngon miệng, tương ớt cùng hành củ, phụ nữ chuẩn bị đủ. Phụ nữ nghe lời ông, bảo gì cứ thế làm. Nguyên soái đã nói vậy, ai mà dám cưỡng lại, cưỡng lại chắc phiền toái. Phiền thế nào? Khi ra trận, bùa không thiêng, đạn vốn không có mắt. Nguyên soái còn bảo, không được ngủ với vợ, nếu ngủ đạn không sợ, liên can đến sinh mạng, ai dám cho là đùa!
Lúc tế cờ, trời bắt đầu mưa phùn. Gió lặng. Hai lá cờ rủ xuống, không một lần phe phẩy. Trong cái hay cũng còn có cái dở, nhưng biết làm thế nào được? nhưng vì trời mưa, nên khăn đội đầu đặc biệt đỏ tươi. Màu đỏ ươn ướt khiến nguyên soái rất thích.
Tư Hỉ gõ thanh la càng mạnh hơn. Mấy ngày nay chú gõ thủng chiếc thanh la, chỗ tay cầm phỏng rộp, phải lấy vải trắng quấn lại. Trong tiếng thanh la cấp tập, ý hướng của mọi người dần tập trung về một mối, ý thức nghiêm chỉnh đậm dần lên, không khí thần bí dần quánh lại. Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới khiêng đến một con dê trói bốn chân, đặt trên bàn bát tiên. Con dê không chịu nằm yên, cứ ngóc đầu dậy, kêu thảm thiết. Tiếng dê kêu làm mọi người thót tim, thấy nó thật đáng thương. Đáng thương thì cũng phải giết. Trận mạc là phải hy sinh. Đánh nhau với giặc Tây, phải giết dê tế cờ để cầu may mắn. Tôn Ngộ Không dằn con dê xuống mặt bàn cho nổ nó dài ra. Trư Bát Giới bê con dao bầu to tướng đến, gác cổ con dê lên mặt đế, nhổ liền ba bãi nước bọt vào lòng bàn tay, nắm chắc cán dao bầu, lùi lại hai bước lầy đà rối dướn tới, “hự” một tiếng sập mạnh, đầu dê lìa khỏi cổ, máu vọt ra như xối.
Nhạc nguyên soái vẻ mặt nghiêm trang, bê huyết dê bằng hai tay, vẩn lên ngọn cờ đang rủ, rồi quì xuống lạy. Mọi người làm theo. Nguyên soái đứng dậy, vẩy chỗ huyết còn lại vào hàng quân, nhưng huyết ít không thể vẩy khắp, những người dính đôi giọt đặc biệt sung sướng. Khi vẩy rượu, miệng nguyên soái lẩm bẩm, đây là lễ cầu tập thể như trên đã kể. Vì thời gian eo hẹp, không thể từng người uống bùa để đồng nhập. Tất cả các thần linh đều do nguyên soái thay mặt cầu giúp. Lòng thành ắt thiêng. Nguyên soái yêu cầu mỗi người tâm niệm vị thần của mình mà đi vào trạng thái mơ màng. Không rõ được bao lâu, nguyên soái hét to:
– Trời linh thiêng, đất linh thiêng, kính thỉnh tổ sư hãy hiển linh. Một thỉnh Đường Tăng Trư Bát Giới, hai thỉnh Sa Tăng Tôn Ngộ Không, ba thỉnh Lưu Bị Gia Cát Lượng, bốn thỉnh Quan Công Triệu Tử Long, năm thỉnh Tế Cán ngài Phật tổ, sáu thỉnh Lý Quì Hắc Toàn Phong, bảy thỉnh Thời Thiên Dương Hương Vũ, tám thỉnh Võ Tòng và La Thành, chín thỉnh Biển Thước về trị bệnh, mười thỉnh Thác Tháp Thiên Vương Kim Tra Mộc Na Tra ba thái tử soái lĩnh mười vạn thiên binh, xuống trần giúp đả bọn Tây dương, diệt giặc Tây dương, thiên hạ thái bình, Ngọc hoàng đại đế cấp cấp như lặc lệnh…
Đột nhiên, mọi người như được tiêm thần lực, dòng máu căng lên trong huyết quản, tinh thần phấn chấn, cơ bắp rắn chắc đầy sức mạnh, đồng thanh hét lớn, nhảy nhót như hổ báo sài lang, rung râu trợn mắt, vung tay đá chân, tư thế hùng dũng khác thường.
Nhạc nguyên soái ra lệnh:
– Xuất phát!
Nhạc nguyên soái tay cầm gậy gỗ xông lên trước. Tôn Ngộ Không vác đàn kỳ màu đỏ, Trư Bát Giới vác soái kỳ màu trắng, Ngải Hỗ gõ thanh la, xúm xít theo sau. Rồi đến các lộ thần tiên bám sát, vừa đi vừa hò hét.
Trấn Mã Tang kề bên sông, phía nam là con đê Mã Tang dài hút tầm mắt, phía bắc là bình nguyên mênh mông. Để chống phỉ cướp bóc, trấn có tường vây hình bán nguyệt, chia các cửa đông, tây, bắc. Tường vây cao hơn đầu người, bên ngoài có hào, trong hào có nước, trước mỗi cổng có cầu treo.
Đội quân của Nguyên soái ra khỏi trấn theo cửa bắc. Theo sau đội ngũ là một lô một lốc trẻ em tinh nghịch. Chúng giơ cao cành cây, thân cao lương và thân cây hoa quỳ, mặt bôi nhọ nồi hoặc màu đỏ. Chúng bắt chước người lớn, hò hét bằng giọng non choẹt. Chúng cũng khệnh khạng hành tiến. Các cụ già thì tụ tập chỗ tường vây, thắp hương cầu thắng lợi.
Ra khỏi trấn, Nhạc nguyên soái bước càng nhanh, tiếng thanh la của Ngải Hổ càng thôi thúc. Mọi người bước theo nhịp thanh la. Khu lều trại đường sắt cách trấn không xa, ra khỏi tường vây đã nhìn thấy. Mưa phùn bay bay, từng đám hơi nước là là trên mặt ruộng. Tiểu mạch đông đã nảy mầm, mùi đất nồng đậm. Bờ mương hướng mặt trời, rau diếp dại đã nở hoa, cây nào cây ấy trắng như bông. Đội quân làm đôi chim gáy hoảng sợ, cất cánh bay đi. Tiếng cú cu từ rừng cây xa xa vọng lại.
Con đường sắt Giao – Tế, đoạn từ Thanh Đảo đến Cao Mật cơ bản đã làm xong, lặng lẽ nằm phục trên đồng ruộng như con rồng dữ, chỉ thấy đầu mà không thấy đuôi. Một số người đang làm việc trên đường, dụng cụ bằng sắt đập vào nhau tinh tang. Trong lều, khói thổi cơm màu trắng sữa bay lên. Tuy còn cách một dặm, nhưng Nguyên soái đã ngửi thấy mùi thịt nướng.
Khi còn cách khu lều trại một dặm, Nhạc nguyên soái ngoái lại nhìn đội ngũ mình. Đạo quân rất tề chỉnh lúc ra khỏi trấn, giờ lộn xộn chẳng ra thể thống gì. Trên đồng không có đường, lội ruộng, chân người nào người ấy lấm bê bết những bùn là bùn, bước đi lạch bạch, vụng như gấu. Nguyên soái lệnh cho Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới đi chậm lại. khi mọi người chụm lại đã tương đối, nguyên soái ra lệnh:
– Các con, chùi chân đi, chuẩn bị tiến công!
Mọi người vẩy chân, có người vẩy cả bùn lên mặt, có người vẩy mạnh quá, giày văng đi mất. Nguyên soái thấy đã đến lúc, bèn hô lớn:
– Đầu bụng thân thép, doanh trại thép, chắn đạn cho ta đạn chẳng vào. Hỡi các tướng sĩ, xung phong! Phá đường sắt, giết Tây dương, con cháu muôn đời hưởng thái bình!
Động viên xong, Nguyên soái giơ cao cây gậy gỗ táo, vừa hét vừa xông lên. Tôn Ngộ Không và Trư Bát Giới vác cờ theo sát nút. Ngải Hổ ngã vập miệng xuống đất, giày kẹt lại trong bùn. Chú vùng dậy, cứ chân đất mà xông lên. Quần chúng đồng lao5t gào thét, xông tới khu lều trại như đàn ong.
Một tiều đội lính thủy quân lục chiến Đức làm nhiệm vụ bảo vệ đường, tất cả có mười hai lính. Chúng đang ăn cơm. Nghe bên ngoài ồn ào, tên Tiểu đội trưởng chạy ra ngó, thấy tình hình nguy hiểm, vội chạy vào lệnh cho bọn lính chuẩn bị súng. Khi đám quân của Nhạc nguyên soái chỉ còn cách khu lều khoảng chục bước, đám lính Đức đã xách súng chạy ra khỏi lều.
Nhạc nguyên soái trông thấy đầu nòng súng của bọn Đức phụt ra những bông hoa trắng, đồng thời tai nghe tiếng nổ, phía sau ông có tiếng kêu thảm thiết. Nhưng ông không kịp quay lại, cũng không có thì giờ suy nghĩ, ông thấy mình như cây gỗ giữa dòng nước lũ, theo đà xông vào trong lêu bọn Đức. Ông trông thấy một chiếc bàn kê to giữa lều, trên bày một đĩa thịt lợn, một số dao, dĩa trắng tinh. Thịt lợn thơm điếc mũi. Một tên lính Đức rúc nửa người vào gầm giường, cặp chân dài thượt vẫn ở ngoài. Trư Bát Giới lấy đinh ba đâm một nhát vào chân nó. Nó hét lên một tiếng dài lê thê, không hiểu có nghĩa gì, đoán chừng là kêu khóc cha mẹ! Nhạc nguyên soái chạy ra khỏi lều, truy bắt những tên Đức chạy trốn. Hầu hết chúng chạy về phía đường sắt. Mọi người đuổi theo sát nút.
Chỉ có một tên Đức chạy ngược lại, Nhạc nguyên soái cùng Ngải Hổ đuổi theo nó. Thằng Đức chạy không nhanh, khoảng cách ngắn dần lại. Nguyên soái thấy cặp chân như hai que củi thì rất buồn cười. Bỗng tên Đức tụt xuống lòng mương, và ngay lập tức, một làn khói nhỏ từ bờ mương bay lên, Ngải Hổ đang chạy đằng trước bỗng chúi một cái, cắm đầu xuống đất. Lúc đầu, nguyên soái tưởng Ngải Hổ trượt chân, nhưng liền sau đó, thấy máu chảy trên đầu, ông hiểu Ngải Hổ đã trúng đạn thằng Đức. Khúc bi ca lập tức nổi lên ầm ầm trong đầu, ông vung gậy xốc tới. Một viên đạn vút qua tai, nhưng ông đã ở trước mặt thằng Đức. Nó nâng khẩu súng cắm lê lên, nhưng bị cây gậy của ông đánh văng đi, nó hoảng sợ bỏ chạy dọc theo dòng mương. Nhạc nguyên soái đuổi theo. Tên Đức đi giày ủng lún trong bùn, không chạy được. Nhạc nguyên soái lấy đà, vụt một gậy vào ót nó. Ông nghe thấy nó kêu thất thanh, đồng thời ngửi thấy mùi thịt dê. Thằng cha này chắc tuổi dê – Ông nghĩ.
Tên Đức chúi đầu trong bùn. Khi nó từ từ ngóc đầu lên, Nhạc nguyên soái vụt một gậy, chiếc mũ đội trên đầu nó bẹp rúm. Ông định đập cho vỡ đầu nó, nhưng chợt trông thấy cặp mắt xanh da trời của nó giống hệt mắt con dê tế cờ, chớp chớp đáng thương quá, tay ông nhũn ta, nhưng ông không kịp thu gậy, cây gậy sượt qua đầu, rơi trên vai tên Đức.
25
Triệu Giáp tay cầm dao nhọn, đứng giữa bãi tập của trạm lính, chú học việc chân vòng kiềng đứng bên. Trước mặt lão là cây cọc to cao bằng gỗ thông, phạm nhân hành thích Viên Thế Khải đại nhân không thành, bị xử tùng xẻo năm trăm mảnh, trói ở cột. Sau lưng lão, mấy chục con tuấn mã đứng chen chúc, trên lưng ngựa là các sĩ quan cao cấp của quân đội mới thành lập. Phía sau cột hành hình, năm nghìn lính xếp thành khối vuông vức, trông xa như một rừng cây, lại gần như những ông phỗng. Gió lạnh đầu đông cuốn tung đất phèn trắng xóa, táp vào mặt các binh sĩ. Hàng nghìn cặp mắt nhìn vào, Triệu Giáp có vẻ hơi căng thẳng, thậm chí hơi e ngại, mặc dù lão đã quá quen với khung cảnh pháp trường. Lão cố nén những ý nghĩ không tốt cho công việc, không ngắm những sĩ quan trên lưng ngựa hoặc binh lính trên mặt đất, mà tập trung nghiên cứu tên tội phạm trước mặt lão.
Lão nhớ lại lời ân sư – Già Dư: một đao phủ ưu tú là khi đứng trước bục hành hình, trong con mắt anh ta không có người sống, mà chỉ có những cơ bắp, những phủ tạng và những chiếc xương. Trải qua hơn bốn chục năm rèn luyện trong nghề, Triệu Giáp đã đạt tới bậc cao thủ, vậy mà hôm nay lão hơi hoảng. Hơn bốn mươi năm thi hành án, lão trực tiếp thực hiện gần một nghìn vụ, nhưng đây là lần đầu tiên lão thấy một cơ thể đàn ông cân đối, khỏe mạnh và đẹp đến thế. Tội phạm mũi cao, miệng rộng, lông mày lưỡi mác, mắt sáng như sao, ngực nở, bụng thon, da mịn màu đồng điếu. Đặc biệt, trên khuôn mặt hắn luôn mỉm cười châm biếm. Triệu Giáp ngắm hắn, hắn cũng ngắm lại, khiến Triệu Giáp hơi xấu hổ, chẳng khác đứa trẻ có lỗi, không dám nhìn vào mặt người lớn.
Bên rìa bãi tập đặt ba cỗ đại bác bằng thép có màu đen, hơn chục binh lính xúm xít xung quanh. Ba phát nổ liên tiếp khiến Triệu Giáp giật mình, tai ù đi, không còn nghe thấy gì nữa, mùi lưu huỳnh bay ra từ đầu nòng pháo xộc vào mũi. Phạm nhân nhìn về phía những khẩu pháo, khẽ gật đầu, hình như có ý khen kỹ thuật của bọn pháo binh. Triệu Giáp chưa kịp hết bàng hoàng, lại thấy lửa phụt ra từ đầu nòng và một loạt tiếng nổ. Lão trông thấy những vỏ đạn vàng chóe văng ra bãi cỏ phía sau các cỗ pháo, nóng đến nỗi cỏ cháy sém. Sau cùng là ba phát nổ rền, các pháo thủ đứng nghiêm sau các cỗ pháo, biểu thị đã hoàn thành nhiệm vụ. Trong tiếng dội rào rào, một giọng rất cao hô to:
– Chào đại nhân… chào!
Ba nghìn lính đồng loạt bồng súng chào, hình thành một rừng súng phía sau cọc hành hình, ánh thép sáng ngời. Khí thế oai nghiêm khiến Triệu Giáp đứng ngây ra Ở Bắc Kinh bao nhiêu năm, từng xem ngự lâm quân của hoàng gia thao diễn, nhưng không thể so với những gì lão trông thấy trước mắt. Lão hơi khiếp, thậm chí cảm thấy lo sợ, vẻ tự tin và phong thái ung dung mỗi khi hành hình ở Thái Thị Khẩu hoàn toàn biến mất.
Các binh sĩ trên bãi tập và các sĩ quan trên lưng ngựa giữ tư thế chào, đợi đại nhân. Trong tiếng kèn đồng rộn rã và tiếng trống cà rùng, một cỗ kiệu lớn tám người khiêng, đi xuyên qua con đường kẹp giữa hai hàng bạch dương như chiếc lâu thuyền xuôi theo dòng nước, đến trước cột hành hình thì dừng lại. Chú lính hầu nhanh nhẹn kê ghế rồi vén rèm. Một quan lớn người tầm thước, mặt to tai lớn, ria ngạnh cá trê, chui ra. Triệu Giáp nhận ra đó là Lục quân Đốc biện Viên Thế Khải đại nhân, người mà cách đây hai mươi ba năm Triệu Giáp đã có duyên được gặp mặt, nay ngài phá lệ thiên triều, điều lão từ Bắc Kinh về Thiên Tân thi hành án lăng trì xử tử.
Viên Thế Khải, bên trong mặc quân phục, ngoài khoác hồ cầu, vô cùng oai vệ. Ông ta giơ tay vẫy đội ngũ trên bãi tập, rồi ngồi xuống ghế bành phủ da hổ. Viên quan trực nhật đứng trước đội kỵ mã hô to:
– Lễ tất!
Các binh sĩ nhất loạt hạ súng đánh roạt, nghe rợn người. Một sĩ quan trẻ, da thiết bì, răng vàng khè, tay cầm mảnh giấy, khom người ghé miệng sát mặt Viên đại nhân thì thầm điều gì đó. Viên đại nhân chau mày, ngoảng mặt đi nơi khác, hình như để tránh hơi thối từ miệng viên sĩ quan trẻ, nhưng viên sĩ quan lại nhích lên theo. Triệu Giáp không biết, và không bao giờ biết viên sĩ quan vừa gầy vừa đen, răng vàng khè đó sau này là Biện soái Trương Huân nổi danh trong thiên hạ. Triệu Giáp buồn htay Viên đại nhân, lão đoán hơi thở của Trương Huân chắc là khó ngửi lắm. Cuối cùng, Trương Huân nói xong, Viên Thế Khải gật đầu, ngồi lại tư thế cũ. Trương Huân đứng trên chiếc ghế cao, đọc to nội dung ghi trong giấy:
“Xét phạm nhân Tiền Hùng Phi, tự Bằng Cử, quê quán Ích Dương, Hà Nam, năm nay hai mươi tám tuổi. Tiền Hùng Phi, năm Quang Tự thứ hai mươi mốt, học trường sĩ quan Nhật Bản, thời kỳ ở Nhật tự ý cắt bỏ bím tóc, kết giao với đảng gian, mưu toan phản biến. Sau khi về nước, câu kết chặt chẽ với loạn đảng Khang – Lương, một phường gạt mạt cưa mướp đắng. Sau do nghịch tặc Khang bày vẽ, giả vờ trung thành, chui vào Hữu quân Vũ vệ của ta, mưu toan làm nội ứng cho nghịch tặc. Loạn đảng bị phép nước trừng trị tại Bắc Kinh, phạm Tiền cầy cáo thương nhau đến loạn trí, ngày mười một tháng Mười năm nay âm mưu hành thích đại nhân, may mà trời phù hộ quân ta, Viên đại nhân không hề hấn gì. Giặc Tiền phạm thượng, đại nghịch vô đạo, tội ác nghiêm trọng, không thể tha thứ. Chiểu theo pháp luật Đại Thanh, hành thích mệnh quan triều đình, tội táng xẻo thịt năm trăm mảnh. Hình phạt đã báo Bộ Hình phê chuẩn, đặc cách cử đao phủ về Thiên Tân thi hành án…
Triệu Giáp cảm thấy nhiều ánh mắt đổ dồn về phía lão. Đao phủ thi hành án ở ngoài kinh thành là chuyện hi hữu, không cứ gì ở triều Đại Thanh, mà tất cả các triều đại đều không có tiền lệ. Do vậy lão thấy trách nhiệm của lão rất nặng, trong lòng thấp thỏm không yên.
Trương Huân đọc xong lời buộc tội, Viên Thế Khải trút bỏ áo cừu đứng dậy nhìn lướt ba nghìn lính mới, rồi bắt đầu diễn thuyết, khí chất mạnh mẽ, tiếng nói như chuông:
– Hỡi anh em, bản quan cầm quân đã nhiều năm, yêu lính như con, các ngươi bị muỗi đốt, ta cũng thấy đau lòng. Điều này các ngươi đã biết. Vậy mà ta không thể ngờ Tiền Hùng Phi xưa nay vẫn được ta coi trọng, lại định giết bản quan? Ta kinh ngạc ở cùng, đồng thời cũng thất vọng vô cùng…
– Các anh em, Viên Thế Khải ranh ma giảo hoạt, bán bạn cầu vinh, chết vẫn chưa hết tội. Anh em đừng bao giờ mê muội trước những lời đường mật của hắn – Tiền Hùng Phi nói to.
Thấy Viên Thế Khải mặt đỏ như gấc, Trương Huân chạy như bay đến chỗ cột hành hình, giang thẳng cánh đấm một quả vào miệng Tiền Hùng Phi, chửi:
– Đồ con c., chết đến nơi vẫn già mồm!
Tiền Hùng Phi nhổ một bãi nước bọt lẫn máu vào mặt Trương Huân.
Viên Thế Khải xua tay, ngăn không cho Trương Huân đánh Tiền Hùng Phi, nói:
– Tiền Hùng Phi, ngươi bắn giỏi như thần, học thức hơn người, bản quan tặng ngươi súng vàng, giao cho ngươi trọng trách, coi ngươi là tâm phúc, ngươi không đền ơn thì chớ, lại mưu hại bản quan, như vậy ai chịu được? Bản quan bị ngươi hạ độc thủ, nhưng tiếc cái tài của ngươi, thực tình không muốn giết ngươi. Nhưng quốc pháp không vì tình riêng, quân pháp không thể coi thường, bản quan không thể cứu được ngươi!
– Thích giết cứ giết, lải nhải mãi!
– Sự tình đã đến nỗi bày, ta đành bắt chước Gia Cát Võ hầu, gạt nước mắt giết Mã Tốc vậy!
– Viên đại nhân, đừng làm trò nữa!
Viên đại nhân lắc đầu, thở dài:
– Nhà ngươi ngoan cố không chịu hối cải, bản quan không cứu nổi ngươi.
– Ta sẵn sàng từ lâu, Viên đại nhân ra tay đi!
– Bản quan đã đối xử với ngươi hết tình hết nghĩa, ngươi có điều gì cần dặn dò thì cứ nói, bản quan sẽ lo cho ngươi.
– Viên đại nhân, ta và tri huyện Cao Mật Tiền Đinh tuy là anh em ruột, nhưng đã cắt đứt quan hệ từ lâu, mong đại nhân đừng giết anh ta.
– Ngươi yên tâm.
– Đa tạ đại nhân! – Tiền Hùng Phi nói – không ngờ đại nhân cho người đánh tráo đạn, khiến ta hỏng việc, đáng tiếc, đáng tiếc!
– Không ai đánh tráo đạn của ngươi – Viên Thế Khải cười – Đây là ú trời!
– Trời không diệt Viên, Viên không chết – Tiền Hùng Phi thở dài – Viên đại nhân, ông thắng rồi!
Viên Thế Khải dặng hắng, cất cao giọng:
– Anh em, hôm nay lăng trì Tiền Hùng Phi, bản quan đau lòng lắm! Vì rằng hắn là một sĩ quan rất có triển vọng, bản quan đã từng gửi gắm kỳ vọng ở hắn. Nhưng hắn kết giao với đảng loạn, phản lại triều đình, phạm thập ác không thể tha thứ. Không phải bản quan giết hắn, cũng không phải triều đình giết hắn, mà chính hắn giết hắn. bản quan vốn định ban cho hắn chết toàn thây, nhưng đây là pháp luật nhà nước, bản quan không dám tư túi. Để cho hắn chết được trọn vẹn, đặc cách mời đao phủ giỏi nhất của Bộ Hình về đây. Tiền Hùng Phi, đây là món quà cuối cùng bản quan tặng nhà ngươi, mong ngươi thanh thản mà thụ hình, nêu một tấm gương cho lớp quân nhân kiểu mới của ta. Các con em nghe đây, hôm nay mời các ngươi đến xem hành hình, nói câu khó nghe một tí, là giết gà dọa khỉ. Bản quan hi vọng các ngươi rút ra được bài học từ Tiền Hùng Phi, trung thực, cẩn thận, tận trung với triều đình, phục tùng quan trên. Miễn là các ngươi làm theo lời bản quan, đảm bảo các ngươi có một tiền đồ tốt đẹp!
Binh lính được các sĩ quan khơi mào, đồng thanh hô lớn:
– Xin thề tận trung với triều đình, thề chết vì đại nhân!
Viên Thế Khải lùi lại ghế, ngồi xuống, nhìn quan trung quân Trương Huân, gật đầu. Trương Huân hiểu ý, hô lớn:
– Khai đao!
Triệu Giáp bước lên một bước, đối diện với Tiền Hùng Phi. Đồ đệ đưa vào tay lão con dao nhỏ chuyên dùng xẻo thịt trong hình phạt lăng trì. Lão trầm giọng nói nhỏ:
– Đắc tội, người anh em!
Tiền Hùng Phi coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng đôi môi trắng nhợt cứ run lên. Nỗi sợ không che giấu được của Hùng Phi, lấy lại sự vinh diệu nghề nghiệp cho Triệu Giáp. Con tim lão thoắt cái lại rắn như đá, lặng như nước tù. Trước mặt lão không phải con người đang sống, mà chỉ còn là một đống những xương thịt gân cốt tạo theo khuôn mẫu của tạo hóa. Lão vỗ mạnh một phát trúng tim, khiến Tiền Hùng Phi mắt trợn ngược. Chính lúc tiếng vỗ chưa kịp lặng, tay phải cầm dao của lão khéo léo khoanh một nhát ở ngực bên phải của Tiền Hùng Phi.
Triệu Giáp làm theo qui trình bất thành văn trong nghề, dùng mũi dao xọc miếng thịt giơ cao lên cho Viên đại nhân và đám sĩ quan trông thấy, sau đó lại giơ cho năm ngàn binh sĩ xem. Đồ đệ của lão đứng bên đếm:
– Miếng thứ nhất!
Lão nghe rõ tiếng thở gấp của đám sĩ quan sau lưng, nghe rõ tiếng ho không tự nhiên rất gần của Viên Thế Khải, không cần ngoảnh lại, lão cũng biết bọn quan quân đã biến sắc mặt. Lão còn biết, tim họ, có cả tim của Viên Thế Khải trong đó, đập không đều. Nghĩ vậy, lòng lão tràn đầy khoái cảm của niềm vui trong tai họa. Những năm gần đây, các đại nhân rơi vào tay Bộ Hình khá nhiều, lão đã quen nhìn những ông khi đắc thế diệu võ giương oai, nhưng khi thụ hình chỉ là đồ bị thịt. Loại hảo hán như Tiền Hùng Phi che giấu được nỗi sợ trước hình phạt tàn khốc, thì quả là trăm người chưa có một. Thế là, lão cảm thấy chít ít là trong giờ phút này, lão là tối cao vô thượng, lão không phải là lão, lão là đại biểu cho Hoàng thượng, Hoàng Thái Hậu, lão là cánh tay pháp luật của triều Đại Thanh.
Theo cách gọi của người trong nghề, miếng thứ nhất tạ trời.
Nhát thứ hai bên ngực trái, vẫn nhanh gọn như thế, vẫn chuẩn xác không sai sót như thế. giờ đây trên ngực Hùng Phi xuất hịên hai lỗ to bằng đồng xu, chảy máu nhưng rất ít. Nguyên do, trước khi khai đao, trái tim Hùng Phi co rút do bất chợt bị vỗ mạnh, tốc độ tuần hoàn của máu chậm hẳn lại. Đây là kinh nghiệm Bộ Hình mò mẫm và tổng kết được qua một thời gian dài của rất nhiều đao phủ ở Ngục Aùp Tư, có thể nói không lần nào ngoại lệ.
Tiền Hùng Phi tỏ ra không run sợ khi thụ hình, nhưng tiếng rên khẽ đến nỗi chỉ mình Triệu Giáp nghe thấy, hình như nó thoát ra từ lỗ tai của Hùng Phi. Triệu Giáp chỉ chăm chăm nhìn vào mặt Hùng Phi, lão đã quá quen với tiếng la hét của phạm khi bị xéo thịt, trong bối cảnh ấy, la càng to, lão càng bình tĩnh. Nhưng gặp trường hợp rắn rỏi tới mức cắn răng không kêu một tiếng của Hùng Phi, lão đâm ra tâm thần hoảng hốt, do bên tai lão im ắng quá, hình như sắp có chuyện động trời xảy ra. Trợ thủ của lão đứng bên, đếm:
– Miếng thứ hai!
26
Theo lão phân tích, đao phủ trình làng thứ gì xẻo từ trên người phạm, là dực trên cơ sở pháp luật và tâm lý: Một, biểu thị sự vô tư của luật pháp và sự cẩn trọng của đao phủ. Hai, tạo sự chấn động về tâm lý trong dân chúng đến xem hành hình, do đó mà loại bớt những ý nghĩ độc ác, bớt phạm tội. Đây là lý do vì sao các triều đại đều cho dân chúng đến xem. Ba, thỏa mãn nhu cầu tâm lý. Không một vở diễn, một tích hát, một kịch nghệ nào hay bằng. Đây cũng là lý do cơ bản khiến các đao phủ cao cấp của Bộ Hình coi thường các kép hát được sủng ái trong cung. Khi giơ miếng thịt thứ hai cho mọi người xem, Triệu Giáp nhớ lại những ngày lão theo thầy học nghệ. Để rèn luyện tuyệt kỹ trong hình phạt lăng trì, các đao phủ ở Ngục Aùp Tư thiết lập quan hệ mật thiết với lò mổ lợn ở Sùng Văn Môn Ngoại. Những lúc thưa iệc, sư phụ dẫn họ đến làm không công ở đây. Họ đã thái không biết bao nhiêu con lợn béo để làm nhân bánh bao, cuối cùng, trình độ cao siêu tới mức chính xác như cân, bảo cắt một cân là đúng một cân, không thừa không thiếu. Thời kỳ Già Dư giữ ấn Ngục Aùp Tư, đã từng cho mở lò mổ liên hoàn ở Tây Tứ, bên ngoài bán thịt, phía sau là lò mổ, buôn bán cực kỳ phát đạt. Về sau, không biết ai để lộ, người ta không đến mua thịt đã đành, lại còn mắt trước mắt sau mỗi khi đi qua, chỉ sợ bị bắt làm thịt. Thế là sập tiệm.
Lão nhớ trong chiếc tráp ở đầu giường sư phụ có một quyển sách giấy đã ố vàng, rất ròn, vẽ rất nhiều đồ họa có chú giải bên cạnh. Tên quyển sách đó là “Sách không phổ biến của thu quan”, nghe nói của một “Già” đời Minh truyền lại. Trong sách ghi lại rất nhiều loại hình phạt, cách thức thi hành án và những điều cần chú ý. Quả là trứ tác kinh điển về nghề đao phủ. Sư phụ cho xem đồ họa và phần chữ, giải thích cặn kẽ cho anh em lão về hình phạt lăng trì. Sách nói rằng, lăng trì có ba cấp độ. Cấp một, xẻo ba nghìn ba trăm năm mươi bảy miếng; cấp hai, hai nghìn tám trăm chín mươi sáu miếng; cấp ba, một nghìn năm trăm tám mươi lăm miếng. Lão nhớ sư phụ còn nói, bất kể xẻo bao nhiêu miếng, nhưng miếng cuối cùng phải là vừa xẻo xong, phạm chết liền. Do vậy, phải bắt đầu xẻo từ chỗ nào, miếng trước miếng sau cách nhau bao lâu, đều phải thiết kế chính xác căn cứ vào giới tính và thể trạng của phạm. Nếu chưa xẻo đủ số miếng mà phạm đã chết hoặc xẻo đủ số miếng rồi mà phạm vẫn chưa chết, thì phải coi đó là lỗi của đao phủ. Sư phụ nói, tiêu chuẩn tối thiểu của lăng trì là các miếng phải sàn sàn như nhau, đưa lên bàn cân không được hơn kém nhiều quá. Điều này đòi hỏi khi thi hành án, đao phủ phải bình tâm tĩnh khí, tâm phải chi li như sợi tóc, phải quyết đoán khi ra tay; vừa như thiếu nữ thêu hoa, vừa như đồ tể giết lừa. Bất cứ sư nhu nhược chần chừ nào, bất cứ sự lơi lỏng nóng vội nào, đều ảnh hưởng đến tay dao, làm cho động tác bị biến dạng. Làm được như trên thật không phải dễ. Vì rằng cơ bắp con người, sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận và đường gân thớ thịt không giống nhau, hướng dao và dùng sức nhiều hay ít đều dựa vào linh cảm. Sư phụ nói, những đao phủ thiên tài như Cao Đào, như cụ Trương Thang, đều dùng tâm, dùng mắt xẻo thịt, mà không dùng dao, dùng tay. Do vậy từ xưa tới nay, có hàng ngàn vạn án lăng trì, nhưng thi hành đạt tới mức hoàn mỹ gần như không có. Đại để chỉ là xẻo cho đến chết mà thôi. vì thế, càng về cận đại, số nhát dao càng ít đi, cho đến bản triều, năm trăm nhát là nặng nhất. Nhưng thực hiện được năm trăm nhát thì cũng hiếm như lông phượng sừng lân rồi. Đao phủ ở Bộ Hình hành sự cẩn trọng theo đúng ui củ của người xưa để lại, là xuất phát từ lòng tôn kính một chức nghiệp thiêng liêng lâu đời. Còn ở các tình, phủ, châu, huyện, rồng tôm lẫn lộn, hành nghề đao phủ đa phần là bọn lưu manh, thổ phỉ. Bọn chúng bớt xén, phạt xẻo năm trăm miếng, xẻo được hai trăm ba trăm là đã giỏi, phần lớn chặt người ta làm tám, hoặc đâm nhiều nhát cho đến chết.
Triệu Giáp vẩy miếng thịt thứ hai vừa xẻo trên người Hùng Phi xuống đất theo cách gọi của nghề, miếng thứ hai tạ đất.
Lão dùng chiếc khăn lau làm bằng da bụng con dê, dấp nước muối, lau ngực Hùng Phi, để nhát cắt giống vết mới chém trên vỏ cây. Lão xẻo miếng thịt thứ ba trên ngực Hùng Phi, miếng này cũng to bằng đồng tiền, có hình vẩy cá, mép vết cắt mới liền kề vết cũ mà vẫn phân minh, vết nào ra vết ấy. Sư phụ nói, hình phạt lăng trì còn gọi là “xẻo vẩy cá”, gọi như vậy rất hình tượng và xác đáng. Triệu Giáp cảm thấy trong lòng thư thái, công việc hôm nay, xem ra đã cầm chắc thành công một nửa.
Lão quăng miếng thứ ba lên trời, miếng này là tạ quỉ thần. Đồ đệ đứng bên đếm:
– Miếng thứ ba!
Ném đi miếng thứ ba, lão xẻo miếng thứ tư.
Khi Triệu Giáp xẻo miếng thứ năm mươi thì cơ bắp trên ngực Hùng Phi đã hết. Đến đây, công việc của lão đã hoàn thành được một phần mười. Đồ đệ đổi cho lão lưỡi dao mới. Lão thở mạnh hai hơi, điều chỉnh lại hô hấp. Có một điều khiến lão cảm thấy chưa trọn vẹn, đó là cho đến phút này, chàng thanh niên vẫn không kêu một tiếng, khiến cho cuộc biểu diễn vốn đầy màu sắc, thành vở kịch vụng về, thiếu hấp dẫn. Lão nghĩ thầm, ta đã trở thành tên đồ tể bán thịt trong con mắt của những người kia. Lão vô cùng khâm phục chàng trai họ Tiền này. Ngoài tiếng rên khe khẽ như có như không ở hai nhát dao đầu, sau đó, im như thóc. Lão ngẩng nhìn người thanh niên vũ dũng, chỉ thấy tóc dựng đứng, mắt tròn xoe, lòng đen biến thành màu đỏ, lỗ mũi nở rộng, hàm răng nghiến chặt, cơ má nổi lên như hai con chuột. Khuôn mặt dữ dằn đó khiến lão hơi hoảng, tay cầm dao nhũn ra. Sư phụ nói, kinh nghiệm lâu năm chi biết, nam giới không sợ róc da rút gân, mà sợ cắt mất bảo bối trong đũng quần. Vì rằng không chỉ đau kinh khủng khi bị cắt cái đó, mà còn nỗi khiếp hãi về mặt tâm linh, sự nhục nhã về mặt nhân cách. Tuyệt đại đa số đàn ông thà chịu chặt đầu, quyết không chịu thiến đi con giống. Sư phụ nói, người đàn ông dù hung hăng đến mấy, chỉ cần cắt bỏ cái trong đũng quần là mất sạch oai phong, gà trống bị nhổ sạch lông vũ. Triệu Giáp không nhìn lên bộ mặt bi tráng khiến lão thấp thỏm không yên. Lão cúi nhìn bộ tam sự của Hùng Phi. Lão nghĩ thầm: thật không phải với chú em! Lão dùng tay trái lôi cái ấy ra khỏi ổ, tay phải nhanh như chớp, “soạt”, đã cắt đứt. Đồ đệ lão cao giọng đếm:
– Miếng thứ năm mốt!
Lúc này, Hùng Phi từ đầu đến giờ vẫn nghiến răng không nói câu gì, bỗng gào lên một tiếng đầy tuyệt vọng. Triệu Giáp tuy đã có sự chuẩn bị về tư tưởng, vậy mà vẫn giật mình. Lão không hay mắt lão chớp lia lịa, lão chỉ cảm thấy hai tay nóng ran, tê dại như có hàng ngàn vạn cây kim nung đỏ châm vào đầu ngón tay, không thể chịu đựng, cũng không thể hình dung nổi sự khó chịu. Tiếng kêu của Hùng Phi không giống lừa, không giống ngựa, cực kỳ thê thảm, khiến đám sĩ quan thuộc Hữu quân vũ vệ bị kích thích và chấn động sâu sắc. Cứ lý mà xét, Viên Thế Khải cũng không thể ngoại lệ. Triệu Giáp không còn thì giờ ngoảnh lại xem thái độ Viên đại nhân và các sĩ quan của ông ta, chỉ nghe thấy tiếng khịt mũi hoảng sợ của lũ ngựa, tiếng lách cách của hàm thiết và tiếng loong coong của lục lạc đao dưới cổ ngựa. Lão thấy hai chân bị trói chặt của Hùng Phi đang run rẩy không yên. Hùng Phi gào liên tục, người vặn vẹo. Lão ngẩng nhìn đồ đệ. Thằng nhỏ mặt sạm như đất, miệng trễ xuống như cái dĩa, mong nó giúp lão hoàn thành nhiệm vụ là không ổn. Lão cắn răng làm tiếp, xẻo một nhát, miếng thứ năm hai, lão khẽ nhắc chú học trò lúc này đã mụ đi. Đồ đệ giọng như khóc, đếm:
– Miếng… thứ… năm hai!
Lão buồn nôn, một trạng thái tâm lý mà bao năm nay lão không bị.
– Đồ chó đẻ!… – Đùng một cái, Hùng Phi cất tiếng chửi – Viên Thế Khải, têng ian tặc kia, ta sống không giết được ngươi, chết sẽ thành quỷ lấy mạng ngươi!
Triệu Giáp không dám ngoảnh lại. lão không rõ sắc mặt Viên Thế Khải ngồi phía sau lão như thế nào? lão chỉ muốn tranh thủ thời gian làm cho xong công việc của lão. Lão cúi xuống xẻo đứt bên còn lại. trong khi lão dợm đứng dậy, Hùng Phi há miệng ngoạm vào đầu lão, may mà lão đội mũ mới không bị cắn vỡ đầu. Nhưng dù có mũ che, Hùng Phi vẫn cắn rách da đầu lão. Chuyện xảy ra khiến lão không rét mà run. Giả dụ khi nãy Hùng Phi cắn vào gáy lão, chắc chắn lão sẽ bị ngốn như tằm ăn dâu; nếu cắn vào tai, chắc chắn không còn. Lão thấy buốt tận óc, trong lúc nguy cấp lão đứng bật dậy, đầu lão tông ngay vào giữa cằm Hùng Phi đánh “cốp” một tiếng. Máu tươi vọt ra, lưỡi dập, nhưng Hùng Phi vẫn luôn miệng chửi Viên Thế Khải. Miếng thứ năm mươi ba. Lão cảm thấy đầu váng mắt hoa, chất dịch tởm lợm cứ trào trên cổ. Lão cắn răng tự nhủ, nôn lúc này là đào sâu chôn chặt tiếng tăm lừng lẫy của đao phủ Bộ Hình.
– Cắt lưỡi nó đi!
Lão nghe thấy tiếng nói giận dữ và oai vệ của Viên Thế Khải phía sau, quay lại, thấy Viên đại nhân mặt tím tái, đập tay vào gối, nhắc lại mệnh lệnh:
– Cắt lưỡi nó đi!
Triệu Giáp định nói, cắt lưỡi là không hợp với qui định tổ tông, nhưng thấy Viên Thế Khải lửa giận bừng bừng, lão đành ngậm miệng. Nói mà làm gì! Ngay đương kim Hoàng Thái Hậu cũng phải nhượng bộ ba phần, lời Viên là khuôn phép! La4p quay lại để đối phó với cái lưỡi của Hùng Phi.
Mặt Hùng Phi đã sưng mọng, máu miệng sủi bọt, phun phì phì, không còn chỗ nào để lách dao. Cắt lưỡi một tử tù đang nổi cơn điên là nhổ răng trong miệng cọp. Nhưng lão không có gan chống lệnh Viên Thế Khải. Lão rà thật nhanh lời dạy và kinh nghiệm của sư phụ trong những trường hợp này, nhưng không có. Hùng Phi vẫn chửi, Viên Thế Khải nhắc lần thứ ba:
– Cắt lưỡi nó đi!
Trong giờ phút nghiêm trọng này, bằng linh cảm, lão cảm thấy thần linh tổ sư phù hộ lão. Tiết mục nửa chừng thêm vào này khiến quân lính ồn ào như vỡ chợ.
Triệu Giáp cầm cái đầu lưỡi trên tay để mọi người nhìn thấy. Lão cảm thấy cái lưỡi bất khuất vẫn đang run rẩy. Con nhái lúc nãy giẫy chết cũng như thế. Miếng thứ năm mươi tư, Triệu Giáp nói không ra tiếng:
– Miếng thứ năm tư! – Đồ đệ lão đếm.
Mặt Hùng Phi chuyển sang màu vàng kim. Máu trào ra từ miệng, hòa với nước. Không còn lưỡi, nhưng Hùng Phi vẫn chửi, dù phát âm cực kỳ khó khăn. Tuy biết anh ta đang chửi, nhưng chửi như thế nào không rõ.
Hai bàn tay Triệu Giáp nóng như chèm lửa, lão cảm thấy chúng sẽ cháy như ngọn đuốc rồi biến thành tro. Lão không trụ nổi, nhưng lòng tôn vinh nghề nghiệp mạnh mã tới mức lão không cho phép mình bỏ dở qui trình của hình phạt. Vì rằng Viên Thế Khải ra lệnh cắt lưỡi, làm rối trình tự gia hình. Lẽ ra lão có thể cho phạm chết rất nhanh một cách tùy tiện, nhưng tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp không cho phép lão xử sự như thế. Lão thấy, nếu không xẻo đủ số đã định, chẳng những vi phạm pháp luật triều Thanh, mà còn có lỗi với chàng hảo hán trước mặt. Bất kể ra sao, phải xẻo đủ năm trăm nhát Hùng Phi mới chết. Nếu chưa đủ số đã chết, thì đao phủ Bộ Hình chỉ là tên đồ tể hạng bét của thang xã hội!
Triệu Giáp dùng khăn tẩm nước muối, lau sạch máu và những chất dơ bẩn trên người Hùng Phi. Khi giặt khăn, lão ngâm tay một lúc vào thùng nước rồi lau khô. Cái miệng không còn lưỡi của Hùng Phi vẫn khép mở liên tục, nhưng âm thanh phát ra thì yếu dần. Triệu Giáp hiểu, phải gia hình thật nhanh, phải điều chỉnh phương án ban đầu căn cứ vào tình hình thực tế trước mắt. Đừng trách đao phủ Bộ Hình bất tài, chỉ trách Viên Thế Khải ra lệng bừa, phá qui tắc. Lão làm một động tác mà ít ai để ý: chích một nhát vào bắp chân lão để cái đau thót tim đẩy lùi sự mệt mỏi và tính lỳ của cơ thể, đồng thời để phân tán sự chú ý của lão vào hai bàn tay nóng như chèm lửa của lão. Lão làm ra vẻ phấn chấn, không thèm để ý Viên Thế Khải và đám sĩ quan phía sau, càng không thèm để ý năm nghình lính phía trước, lão múa dao như gió, đếm như đếm những cục mưa đá, những miếng thịt xẻo ra từ trên người Hùng Phi bay như những con bọ cánh cứng. Triệu Giáp, đứng thẳng lên, khoan khoái thở một hơi. Người lão ướt đẫm, dính nhơm nhớp giữa hai chân, không rõ máu hay mồ hôi. Lão đã trả giá bằng máu của lão cho tiếng thơm một đời của Tiền Hùng Phi, cho vinh dự của đao phủ Bộ Hình.
Chỉ còn sáu nhát dao cuối cùng. Lúc này bộ dạng của Tiền Hùng Phi trông thật đáng sợ. Triệu Giáp chuẩn bị xẻo nhát thứ bốn trăm chín mươi bảy. Theo qui định, vào thời điểm này có hai cách lựa chọn, một là khoét đôi mắt, hai là xẻo đôi môi. Nhưng đôi môi Hùng Phi đã nát bét, quả thực không nỡ xẻo, xẻo là nhẫn tâm. Triệu Giáp quyết định khoét hai mắt. Lão biết Hùng Phi chết mà mở mắt, nhưng chết mà mở mắt phỏng có ích gì? Người anh em, ta không thể trưng cầu ý kiến ở người anh em được nữa! Khoét đi hai con mắt, để người anh em trở thành con ma biết an phận, mắt không nhìn thấy thì tâm không loạn, xuống âm tào địa phủ khỏi phá quấy. Dương gian không cho phép quậy, âm gian cũng không cho phép quậy. Bất luận ở đâu, quậy là không cho phép.
Triệu Giáp chích mũi dao nhọn vào mắt Hùng Phi, đột nhiên Hùng Phi nhắm mắt lại, ngoài dự kiến. Lão vô cùng cảm kích Hùng Phi về sự phối hợp này, vì rằng ngay cả đao phủ giết người như ngóe, khoét đi đôi mắt mở thao láo không phải là chuyện vui vẻ gì. Lão chộp lấy thời cơ có một, khoang mũi dao một vòng quanh hốc mắt… Miếng thứ bốn trăm chín mươi bảy, lão thều thào như hụt hơi.
– Miếng thứ bốn trăm chín mươi bảy!… Đồ đệ còn hụt hơi hơn lão.
Lúc lão giơ dao, thì con mắt phải của Hùng Phi lại mở trừng trừng, đồng thời Hùng Phi gào lên một tiếng cuối cùng, tiếng gào khiến Triệu Giáp lạnh xương sống trong hàng quân, mấy chục binh sĩ nặng nề đổ rạp xuống như tường đổ. Triệu Giáp cực chẳng đã, phải động dao đối với con mắt rực lửa còn lại, rực lửa chứ không phải ánh lửa, như một quả cầu cháy đỏ. Bàn tay Triệu Giáp đã cháy khô, hầu như không cầm nổi cán dao trơn tuột nữa. Lão thấp giọng, khẽ van: Người anh em, nhắm lại đi… Nhưng Hùng Phi không nhắm. Triệu Giáp biết không còn thời gian, đành cắn răng hạ thủ. Nhát thứ bốn trăm chín mươi tám, lão nói.
Đồ đệ của lão đã ngất lịm.
Mấy chục binh sĩ nữa ngã gục.
Hai con ngươi của Hùng Phi sáng trên mặt đất. Dù lấm lemb ùn đất, nhưng con mắt vẫn phát tia lạnh của chết chóc như đang nhìn ai đó. Triệu Giáp biết, nó đang nhìn Viên Thế Khải. Viên đại nhân có thường xuyên nhớ tới đôi mắt phát sáng này không nhỉ? – Triệu Giáp nghĩ thầm
Thao tác đến đoạn này, Triệu Giáp đã mệt đứt hơi. Cách đây không lâu xử trảm “Lục quân tử”, đó là vụ án chấn động toàn quốc, thậm chí toàn thế giới. Để báo đáp cái ơn tri ngộ của Lưu Quan Đệ đại nhân, lão cùng các đồ đệ đem cho thanh đao “Đại tướng” sứt mẻ răng cưa, lởm chởm như hàm răng sói, mài sắc như nước. Thổi đứt lông tơ. Năm vị quân tử kia nhờ lộc Lưu đại nhân mà được hưởng dụng thanh đao chém ngọt đến mức không biết đau. Lão dùng thanh “Đại Tướng” chém đầu họ nhanh như chớp, tin rằng họ chỉ cảm thấy làn gió lạnh sau gáy là đầu lìa khỏi cổ. Do tốc độ quá nhanh, cái thân không đầu bò lổm nhổm hoặc nhảy dựng lên. Nét mặt thì lại càng như lúc còn sống. Lão tin rằng, sau khi lìa khỏi cổ, trong một thời gian nhất định, cái đầu vẫn suy nghĩ, vẫn nhạy cảm. Sau khi hành hình sáu vị quân tử, khắp kinh thành truyền tụng kỳ tích của đao phủ Bộ Hình. Hành trạng các vị quân tử khi thụ hình, qua lời đồn trở thành huyền thoại, tỉ như Đàm Tự Đồng khi chỉ còn là cái xác không đầu, đã chạy đến trước mặt giám hình quan Cương Nghị đại nhân, gián cho ông ta một bạt tai. Còn cái đầu của đại nhân Quang Đệ thôn Lưu Bùi đã ngâm một bài thơ trong khi lăn lông lốc, giọng ngâm sang sảng, hàng nghìn người đều nghe thấy.
Một vụ kinh thiên động địa như vừa kể, không quật nổi Triệu Giáp. Vậy mà thi hành án lăng trì một Đội trưởng Đội cảnh vệ chưa có phẩm trật gì, lại khiến một đao phủ uy danh lừng lẫy mệt bở hơi tai, chân đứng không vững, lại mắc thêm chứng bệnh quái gở: Tay như chèm lửa.
Nhát thứ bốn trăm chín mươi chín xẻo mất mũi Hùng Phi.
Cuối cùng, Triệu Giáp một nhát dao đâm trúng tim Hùng Phi, một dòng máu đen, đen như nước hàng thắng từ đường mía, chảy theo lưỡi dao. Mùi máu xộc vào mũi, khiến Triệu Giáp lại cảm thấy buồn nôn. Đầu cúi gằm, lão nhìn xuống chân lão, nói:
– Mảnh thứ năm trăm, mời đại nhân xem xét!
27
Đêm mồng Tám tháng Chạp năm thứ 22 đời Quang Tự, tuyết lớn.
Sáng ra, kinh thành khoác lên chiếc áo bạc, trắng tinh. Đao phủ số một ở Ngục Aùp Tư Bộ Hình Triệu Giáp bước xuống giường trong tiếng chuông chùa róng rả. Lão thay quần áo, mặc thường phục, đem theo một đồ đệ mới tuyển, nách kẹp một cái bát to, đến chùa lĩnh cháo. Ra khỏi phố Bộ Hình thanh vắng, lão và đồ đệ nhập vào dòng người toàn những hành khất và dân nghèo, hối hả tất bật. Sáng sớm là thời điểm tốt của những kẻ ăn xin và dân nghèo. Niềm vui trùm lên những khuôn mặt tím tái. Tuyết kêu lạo xạo dưới chân. Những cây hòe bên đường như nở đầy hoa trắng, từng chùm từng cụm tuyết trĩu cành. Mặt trời đỏ rực ló ra từ những tảng mây chì, trời hồng tuyết trắng, khung cảnh tuyệt đẹp. Thầy trò lão nhập vào dòng người, qua phố Tây Đơn, rẽ lên hướng bắc, nơi tập trung phần lớn chùa chiền của Bắc Kinh. Các quầy cháo bố thí, khói đùn lên cuồn cuộn. Gần đến lầu Tây Tứ, nơi có lịch sử đẫm máu, thầy trò lão trông thấy từ đám cây cối ngổn ngang sau tổng kho Tây Tứ, từng đàn quạ và hạc xám bay lên…
Lão cùng chú học trò tháo vát đứng vào hàng ngũ những người lĩnh cháo trước cửa chùa Quảng Tế. Ở bãi trống trước cửa chùa, người ta bắc tạm một chiếc ghênh to tướng, lửa cháy đùng đùng, nóng rực. Lão thấy bọn ăn mày áo quần rách rưới đang trong tình trạng khó xử: đến sươi bên bếp thì sợ mất chỗ ở hàng cháo. Ghênh cháo bốc hơi ngùn ngụt, luồng khí bốc cao mấy trượng có hình nấm, trông giống chòm sao Hoa Cái trong huyền thoại. Hai nhà sư mặt mũi nhem nhuốc đứng hai bên ghênh, khuấy cháo bằng xẻng sắt to tướng. Tiếng xẻng quẹt vào đáy ghênh cồn cột, ghê răng. Mọi người đứng trong tuyết, dậm liên tục hai bàn chân tê cóng. Tuyết dưới chân họ mau chóng trở thành băng cứng nhắc. Rồi thì mùi cháo tỏa ra, trong bầu không khí tinh khiết của ban mai, cái mùi lương thực thuần khiết ấy hấp dẫn lạ thường, khiến những con người khốn khổ rất phấn kích, người nào người ấy mắt sáng rực. Mấy chú nhóc trong đám hành khất, so vai rụt cổ, bộ dạng như khỉ, thi thoảng lại chạy ù lên, ghé mũi vào ghênh cháo hít mạnh vài hơi, rồi lại vội vã chạy về chỗ xếp hàng. Mọi người dậm chân mạnh hơn, nhanh hơn, người lắc lư theo mỗi lần dậm.
Triệu Giáp đi đôi tất bằng da chó, bên ngoài là giày nhung, không cảm thấy lạnnh chân. Lão không dậm chân, tất nhiên người không lắc lư. Bụng lão không đói. Lão xếp hàng xin cháo bố thí không phải vì đói, mà vì tuân lệnh theo lời dặn của những đao phủ tiền nhiệm. Sư phụ lão giải thích rằng, cứ đến ngày mười hai tháng Chạp đến chùa ăn cháo thí, là để cáo bạch với Phật tổ, rằng hành nghề đao phủ cũng giống như hành nghề ăn xin, chẳng qua là kiếm miếng ăn, không phải thích giết người. Do vậy, hành động ăn cháo thí, thực tế là hòa đồng thân phận đao phủ với dân nghèo là một. Dù ở Ngục Aùp Tư, đao phủ ngày nào cũng cơm thịt, nhưng cháo thí thì năm nào cũng phải ăn.
Triệu Giáp tự nhận lão là người đứng yên nhất trong hàng ngũ, nhưng lão nhanh chóng phát hiện phía trước lão, chỉ cách có mấy người, một người đứng như bụt mọc, không nhúc nhích. Người này mặc áo dài bông màu đen, đầu đội mũ nỉ, kẹp nách một gói màu xanh. Đây là hình ảnh tiêu biểu cho loại quan nhỏ, ít bổng lộc ở Bắc Kinh. Cái gói nhỏ màu xanh, bên trong có bộ quan phục, khi nào về nha môn mới thay. Nhưng làm quan ở Kinh bất kể liêm hay tham, hàng năm vẫn kiếm chác được từ các quan ngoại tỉnh về Kinh có việc, chí ít cũng nhận được “phí trao đổi”, nếu cực kỳ liêm khiết, ngay “phí trao đổi” cũng không lấy, thì bổng lộc bình thường cũng đủ chi dùng, không đến nỗi phải xếp hàng ăn cháo thí cùng đám ăn mày và dân nghèo. Vậy ông quan này là người như thế nào, lão rất muốn xem mặt, nhưng lại sợ kinh thành vốn là nơi ngọa hổ tàng long, ai dám bảo cái quán quèn không có cao nhân kỳ sĩ? Gánh vằn thắn bán rong, rất có thể là nơi trú chân của anh hùng hào kiệt. Chân nhân không lộ mặt, lộ mặt không phải là chân nhân. Vua Đồng Trị bản triều, tam cung lục viện không xài, lại mò đến quán họ Hàn chôi gà đồng! Sơn hào hải vị của phòng ngự thiện thì không ăn, lại ra Thiên Kiều húp sữa đậu nành! Người xếp hàng trước mặt, làm sao biết được vì sao ông ta xếp hàng xin cháo? Nghĩ vậy, lão từ bỏ ý định lên xme mặt người nọ. Mùi cháo ngày càng đậm, mọi người vô tình cứ lấn dần lên, khoảng cách giữa mọi người càng hẹp, giữa lão và người kia lại càng ngắn, chỉ cần ông ta nghiêng đầu, lão có thể nhìn thấy nửa mặt. Nhưng lưng ông ta thẳng đuỗn, mắt không nhìn ngang nhìn ngửa. Lão chỉ nhìn thấy chiếc đuôi sam ngỗ ngược của ông ta thả xuống sau lưng và chiếc cổ áo bóng lên do đuôi sam cọ vào. Ông ta có đôi tai vừa to vừa dày, vành và dái tai nứt nẻ vì lạnh, có chỗ còn mưng mủ, chảy nước vàng. Cuối cùng, giớ phút sung sướng đã tới. Bắt đầu thí cháo. Hàng ngũ nhích dần lên phía trên. Lúc này hai bên của dòng người, thỉnh thoảng lại có những cỗ kiệu che rèm, do ngựa kéo cũng có, do la kéo cũng có, vụt qua. có cả những bộ hành tay khoác làn, đi đưa cháo cho người thân hoặc bằng hữu. Càng gần, mùi cháo càng thơm. Triệu Giáp nghe thấy bụng lão sôi ùng ục. Người đã được cháo thí đứng húp ngay bên vệ đường, người thì vào chân tường, hai tay bê bát – bàn tay đen nhẻm, húp xoàn xoạt. Hai nhà sư đứng hai bên ghênh, cầm muỗng sắt cán dài, múc không biết mệt đổ vào các bát đưa tới. Cháo rớt từ miệng bát, từ muỗng xuống đất, mấy con chó đói mặc cho người ta đá rất đau, cố xông vào liếm láp những hạt cháo rơi vãi. Rồi cũng đến lượt người nọ. Triệu Giáp trông thấy ông ta lôi từ trong bọc ra chiếc bát bé tí, đưa đến trước mặt nhà sư. Nhà sư ngạc nhiên, vì rằng những người đến xin cháo thí đều dùng bát rất to, có bát to bằng cái chậu, vậy mà bát của người này chỉ một bàn tay là úp kín miệng. Nhà sư cầm muỗng đầy cháo, thận trọng khẽ trút vào bát của ông ta, cái muổng to gấp ba bốn lần cái bát, chỉ trút một phần, bát đã đầy có ngọn. Người nọ kẹp chặt cái gói, hai tay bê bát cháo, gật đầu chào rất lễ độ với nhà sư, rồi ra ven đường ngồi xổm, lặng lẽ húp. Chính trong lúc ông ta bê bát cháo quay đi, Triệu Giáp nhận ra con người mũi cao miệng rộng, mặt xanh như tàu lá rau này là quan chủ Sự của một Tư trong Bộ Hình, Triệu Giáp chỉ biết mặt chứ không biết tên. Lão nghĩ mà buồn thay cho ông ta. làm đến chức Chủ Sự trong Lục bộ, tất nhiên phải là tiến sĩ xuất thân, vậy mà phải bê bát đến xin cháo thí cùng với đám ăn mày, thì thật là thiên hạ có một. Triệu Giáp mấy chục năm ở nha môn, rất biết những cách kiếm tiền và con đường thăng quan của các quan ở Kinh. Người ngồi xổm trên tuyết lở vệ đường kia, nếu không là một anh đần thối, thì là một ông thánh.
Triệu Giáp và đồ đệ lĩnh được cháo, cũng đem sang bên đường, ngồi húp. Miệng húp, nhưng mắt thì theo dõi người kia. Ông ta bê cái bát sứ rất tinh xảo một cách cực kỳ thận trọng, rõ ràng là có ý truyền sức nóng của bát cháo cho hai bàn tay. Đám ăn mày và những người nghèo thì húp xoàn xoạt, còn ông ta thì khẽ khàng, không một tiếng động. Húp xong, ông ta dùng ống tay áo che bát và mặt, không hiểu để làm gì. Triệu Giáp đã đoán ra, khi ông ta bỏ tay áo xuống, lão trông thấy cái bát sạch như lau như chùi. Ông ta cất bát vào trong bọc, rồi vội vã đi về hướng đông nam.
Triệu Giáp và đồ đệ đi theo ông ta. Đi theo cũng là đi về hướng đông nam, Bộ Hình ở hướng ấy. Ông ta có cặp chân dài, sải bước rộng, mỗi bước chân đầu lại gật một cái y như con ngựa bất kham. Triệu Giáp và đồ đệ phải chạy gằn mới kịp. Sau này, khi nhớ lại, Triệu Giáp cũng không cắt nghĩa được lão đi theo để làm gì. Ông ta đi đến xóm đồ gốm kề bên đường thì trượt chân ngã bổ chửng, cái gói vải xanh văng đi khá xa. Triệu Giáp giật mình, định chạy đến đỡ ông ta dậy, nhưng sợ mua việc vào thân, nên chỉ đứng xa mà ngó. Ông ta nằm thẳng cẳng một lúc rồi đứng dậy một cách khó nhọc, đi được mấy bước lại gục xuống. Triệu Giáp hiểu rằng ông ta bị thương. Lão đưa cái bát cho đồ đệ, mình lão chạy lên đỡ ông ta dậy. Lão nhìn khuôn mặt lấm tấm mồ hôi, ân cần hỏi:
– Đại nhân bị thương phải không?
Ông ta không nói gì, vịn vai Triệu Giáp đi được mấy bước, mặt rúm lại vì đau.
– Bẩm đại nhân, xem ra ngài bị thương không nhẹ đâu.
– Ông là ai? – Ông ta hỏi, giọng ngờ vực.
– Bẩm đại nhân, tiểu nhân là nha dịch trong đại đường Bộ Hình.
– Người của Bộ Hình? – Ông hỏi lại – Người của Bộ Hình mà sao ta không biết ông?
– Đại nhân không biết tiểu nhân, nhưng tiểu nhân biết đại nhân – Triệu Giáp nói – Đ ại nhân cần gì ở tiểu nhân, xin cứ nói.
Ông ta đi thử vài bước, người nhũn ra, ông kiếm giúp ta cỗ xe đưa ta về nhà.
Triệu Giáp hộ tống một chiếc chở than do lừa kéo, đưa viên quan về ngôi miếu cũ nát, phía ngoài Tây Trực Môn. Trong sân, một thanh niên rất cao nhưng hình như hơi yếu đang luyện võ. Trời lạnh kinh người, vậy mà chàng thanh niên mặc phong phanh chiếc áo lót, mồ hôi đầm đìa trên khuôn mặt trắng nhợt. Triệu Giáp dìu đại nhân vào sân, chàng thanh niên chạy tới, gọi đại nhân là phụ thân, gọi rồi nước mắt chan hòa. Trong miếu không đốt lửa, gió giật giấy dán cửa sổ xoàn xoạt, chỗ tường nứt được nhét đầy bông gòn. Đầu giường, một phụ nữ đang co ro ngồi xe sợi, khuôn mặt vàng võ, tóc điểm sương, xem ra có vẻ là bà. Cùng với người thanh niên dìu đại nhân lên giường xong, Triệu Giáp cúi chào, chuẩn bị ra về.
– Ta họ Lưu, tên Quangười Đệ, tiến sĩ khoa Qúi Mùi đời Quang Tự, làm Chủ Sự ở Bộ Hình đã nhiều năm. Đây là phu nhân và con trai ta, gia cảnh bần hàn, mong “Già” đừng cười! – Đại nhân nói năng hòa nhã.
– Bẩm, đại nhân đã nhận ra tiểu nhân – Triệu Giáp đỏ mặt nói.
– Thực ra, công việc của các ông cũng như công việc của bọn ta, đều là làm việc cho nhà nước, phục vụ Hoàng thượng, nhưng các ông quan trọng hơn bọn ta – Lưu Quang Đệ thở dài – Bộ Hình thiếu đi vài Chủ Sự, Bộ Hình vẫn là Bộ Hình; nhưng Bộ Hình mà thiếu Già Triệu thì Bộ Hình không còn là Bộ Hình nữa. Vì rằng, phép nước có hàng nghìn điều khoản, thì vẫn phải nhờ thanh đao của ông mà được thực thi.
Triệu Giáp quì xuống, nước mắt lưng tròng:
– Bẩm Lưu đại nhân, thực tình tiểu nhân cảm động về những lời của đại nhân. Làm nghề này, trong con mắt của người khác, chúng tiểu nhân không bằng đồ chó lợn, nhưng đại nhân thì đáng giá cao như thế.
– Đứng dậy đi, Già Triệu – Lưu Quang Đệ nói – Hôm nay ta không mời ông ở lại uống rượu, để hôm khác vậy – Nói rồi, ông bảo chàng thanh niên – Phác con, tiễn Già Triệu ra về!
Triệu Giáp hốt hoảng:
– Đâu dám phiền công tử…
Chàng thanh niên mỉm cười, vòng tay làm một động tác rất điệu, vẻ lịch sự hòa nhã của cậu đã để lại ấn tượng sâu sắc trong ký ức của Triệu Giáp.
Ngày mồng một tháng Giêng năm Quang Tự thứ hai mươi ba. Lưu Quang Đệ cầm một gói bạc bằng giấy dầu, bước vào phòng xép phía đông, nơi ở của cánh đao phủ. Cánh đao phủ đang múa quyền uống rượu, ăn Tết trên giường. Thấy đại nhân bước vào, mọi người kinh hoàng thất thố. Triệu Giáp tuồn xuống giường, chân đất quì lạy: “Năm mới, xin chúc mừng đại nhân!”
Bọn đao phủ đều tụt vội khỏi giường, quì theo Triệu Giáp, đồng thanh chúc: “Năm mới, xin chúc mừng đại nhân!”
Lưu Quang Đệ nói:
– Đứng dậy, đứng cả dậy! dưới đầ lạnh lắm, lên cả trên giường.
Cánh đao phủ nghiêm, hai tay buông xuôi, không dám trèo lên giường.
– Hôm nay ta trực nhật, đến với các ông cho vui – Lưu Quang Đệ mở cái gói: một ít thịt muối đã nấu chín; ông lại lôi từ trong bọc ra một bình rượu hâm nóng, nói – Thịt là do người nhà làm, rượu thì bạn bè cho, các ông nếm thử.
– Chúng tiểu nhân đâu dám ngồi cùng đại nhân – Triệu Giáp nói.
– Hôm nay là ngày Tết, không kể lễ tiết! – Lưu Quang Đệ nói.
– Bẩm đại nhân, chúng tiểu nhân quả thực không dám… – Triệu Giáp nói.
– Lão Triệu, lão làm sao thế? – Lưu Quang Đệ bỏ mũ ra, cởi quan phục, nói – Chúng ta là những người cùng ở trong cung, khách khí làm gì!
Cánh đao phủ nhìn Triệu Giáp. Triệu Giáp nói:
– Đại nhân đã có lòng như vậy, chúng tiểu nhân cung kính không bằng vâng lời! Kính mời đại nhân lên trước.
Lưu Quang Đệ tụt giầy trèo lên giường, hai chân xếp bằng tròn, nói:
– Giường các ông hun nóng ra nóng!
Cánh đao phủ đứng ngây ra mà cười. Lưu Quang Đệ nói:
– Chả lẽ ta phải bế từng người lên chắc!
– Lên giường, lên giường! Đừng để đại nhân giận!
Cánh đao phủ trèo lên giường, người nào người nấy co co rúm rúm. Triệu Giáp rót một chén rượu đầy, hai tay nâng quá đầu, nói:
– Bẩm Lưu đại nhân, chúng tiểu nhân xin mời Lưu đại nhân một chén, chúc đại nhân thăng quan phát tài!
Lưu Quang Đệ đón lấy chén rượu, uống cạn một hơi, chùi mép, nói:
– Rượu ngon, các ông cũng uống đi chứ!
Triệu Giáp cũng uống một chén, lão cảm thấy trong lòng xốn xang.
Lưu Quang Đệ nâng chén, nói:
– Lão Triệu, may mà lần trước ông đưa ta về nhà, ta xin nợ ông món nợ nhân tình ấy. Nào, rót đầy tất cả vào, ta xin chúc các ông một chén.
28
Cánh đao phủ cảm động uống hết rượu trong chén. Triệu Giáp mắt mọng nước, nói:
– Bẩm Lưu đại nhân, từ thủa Bàn Cổ khai thiên lập địa, Tam Hoàng Ngũ Đế đến nay chưa nghe nói có một đại nhân uống rượu ăn Tết cùng đao phủ. Các anh em, chúng mình kính Lưu đại nhân một chén!
Cánh đao phủ quì trên giường, nâng cao chén rượi mời Lưu Quang Đệ.
Lưu Quang Đệ cụng chén từng người một, mắt long lanh:
– Các anh em, ta thấy anh em là những trang hảo hán đội trời đạp đất ở đời. Nghề của các ông, không có gan không làm được! Gan phải đi liền với rượu, cạn nào!
Vài chén rượu vài bụng, cánh đao phủ dần lấy lại vẻ tự nhiên, chân tay lại đắc dụng. Họ luân phiên chuốc rượu Lưu Quang Đệ. Lưu Quang Đệ cũng trút bỏ quan dạng, tay cầm móng giò, ngoạm từng miếng to, nhai nhồm nhoàm, mỡ nhờn cả hai bên mép.
Họ ăn hết thịt trong đĩa, uống hết rượu trong bầu, thì đã ngà ngà say. Triệu Giáp mặt tươi hơn hớn. Lưu Quang Đệ nước mắt rưng rưng. “Dì Cả” nói năng lảm nhảm, “Dì Hai” mắt mở mà đã ngáy khò khò, “Dì Ba” ríu lưỡi, không hiểu nói gì.
Lưu Quang Đệ nhảy xuống đất, luôn miệng kêu:
– Đã quá, đã quá!
Triệu Giáp giúp Lưu Quang Đệ đi giày; “Cháu Ngoại” giúp mặc áo bào, đội mũ. Lưu Quang Đệ được cánh đao phủ hướng dẫn tham quan phòng hình cụ, khi trông thấy thanh “Đại tướng” chuôi có tua đỏ, ông hỏi:
– Già Triệu, thanh đao này đã chém bao nhiêu chóp đỏ?
Triệu Giáp trả lời:
– Tiểu nhân chưa thống kê…
Lưu Quang Đệ giơ ngón tay thử lưỡi đao, nói:
– Thanh đao này không sắc.
Triệu Giáp nói:
– Bẩm, máu người làm nhụt đao rất nhanh, chúng tiểu nhân phải mài trước mỗi lần sử dụng.
Lưu Quang Đệ nói:
– Già Triệu, ta coi như bạn cũ của nhau, một ngày nào đó ta rơi vào các ông, các ông phải mài thanh đao này cho sắc đấy nhé.
– Bẩm đại nhân… – Triệu Giáp lúng túng – Ngài chính trực liêm khiết, thanh nhã, tiết tháo…
– Chính trực liêm khiết mới đáng chết, thanh nhã tiết tháo chém nghìn lần – Lưu Quang Đệ thở dài nói.
Trong tiếng rền bi thảm của mười hai kèn đồng, sáu vị quân tử, có mười hai công sai mặc áo số kèm hai bên, rồi chiếc xe tù rách nát, theo tam cấp, bước lên bục hành hình cao nửa thước.
Bục hành hình được phủ một lớp thảm mới màu đỏ. Xung quanh bục, gia cố một lớp hoàng thổ dày. Nhìn những thay đổi nho nhỏ ấy, tay đao phủ số một Bộ Hình Triệu Giáp cảm thấy được an ủi đôi phần. Lão dẫn đồ đệ theo sáu vị quân tử, lên bục. Tiếng kèn đồng vẫn chưa dứt, càng kéo dài càng thê thảm. Các lính kèn, trán đẫm mồ hôi, má phồng như quả bóng. Triệu Giáp nhìn một lượt sáu vị quân tử, thấy sắc mặt mỗi người một khác. Đàm Tự Đồng cằm dô, mắt nhìn lên trời xanh, vẻ bi tráng phủ lên khuôn mặt gầy guộc. Đứng kề bên là Lâm Húc còn trẻ, khuôn mặt nhỏ nhắn trắng bệch không còn sắc máu, đôi môi mỏng nhợt nhạt run bần bật. Dương Thâm Tú to con, khẽ nghiêng cái đầu vuông vức đồ sộ, miệng méo xệch, nước dãi trong suốt. Khang Quảng Nhân mặt mũi thanh tú, khóc vì quá xúc động, chốc chốc lại lấy tay áo lau nước mắt nước mũi. Dương Nhuệ nhỏ người, tinh thần có vẻ vững, mắt đen, đứng trên bục nhìn khắp lượt như muốn tìm bạn cũ trong đám người ở dưới. Lưu Quang Đệ thân hình cáo lớn, thái độ nghiêm túc, hai mắt cụp xuống, cổ họng có tiếng òng ọc.
Sắp đến chính ngọ. Chiếc đồng hồ mặt trời, bóng cây cọc bằng gỗ sam sắp trùng khít thân cọc. Đó là một ngày thu đẹp, bầu trời trong vắt, nắng như dát vàng. Màu đỏ của tấm thảm trên bục hành hình, màu đỏ của áo choàng trên người quan giám hình, màu đỏ của cờ, phướn, tàn, lọng của đội nghi trượng, chóp đỏ trên nón quan viên, dải đỏ trên nón binh sĩ, tua đỏ trên chuôi đao “Đại tướng”… đều rực lên màu đỏ lửa dưới ánh mặt trời. Một đàn rất đông chim bồ câu trắng lượn trên pháp trường, vòng nọ nối tiếp vòng kia, cánh vỗ nhẹ nhàng, tiếng sáo lanh lảnh. Hàng ngàn vạn người xem bị lính dõng cản lại cách bục khoảng trăm bộ. Họ nghển cổ nhìn chăm chăm lên bục hành hình, sốt ruột chờ đợi cái giây phút khiến họ hoặc vui sướng, hoặc đau xót, hoặc sợ hãi.
Triệu Giáp cũng đang đợi. Lão rất mong quan giám hình sớm ra lệnh, xong việc là lão về luôn. Đứng trước sáu bộ mặt xúc động can tràn này, lão cảm thấy thấp thỏm không yên. Dù đã bôi một lớp tiết gà rất dày lên mặt như đeo mặt nạ, lão vẫn thấy căng thẳng, thậm chí hổ thẹn, cứ như cởi truồng trước đám đông. Mấy chục năm thi hành án, đây là lần đầu tiên lão mất bình tĩnh, mất vẻ lạnh lùng. Trong những vụ khác, chỉ cần áo đỏ khoác lên người, tiết gà bôi lên mặt, là lão cảm thấy trái tim lão lạnh như hòn đá quạ nằm nơi sâu nhất, lạnh nhất dưới đầm. Lão kinh hoảng nhận ra rằng, trong khi thi hành án, linh hồn lão ngủ yên lành trong kẽ nứt của hòn đá quạ; cái đang hoạt động, chỉ là cỗ máy giết người, không sức sống, không tình cảm. Vậy mà, mỗi khi thực hiện xong bản án, rửa sạch mặt mũi chân tay, lão không hề cảm thấy mình vừa giết người. Tất cả đều mơ mơ màng màng, nửa mê nửa tỉnh. Nhưng hôm nay lão thấy chiếc mặt nạ đang rã ra từng mảng như gặp mưa rào, linh hồn lão ẩn sâu trong kẽ đá đang trỗi dậy. Các sắc thái tình cảm, xót xa, hốt hoảng, xúc động… như những mạch nước đầu nguồn, tuôn ra từ các kẽ nham thạch. Lão hiểu, một đao phủ ưu tú khi đứng trên bục hành hình trang nghiêm, không nên có tình cảm gì hết. Nếu như lạnh lùng là một loại tình cảm, thì tình cảm chỉ có thể là lạnh lùng. Bất kể loại tình cảm nào, trừ lạnh lùng, đều hủy hoại thanh dang của đao phủ. Lão không dám nhìn thẳng vào sáu vị quân tử, nhất là nguyên Chủ Sự Bộ Hình Lưu Quang Đệ đại nhân, người có quan hệ thân hữu lạ lùng và chân thành với lão. Hễ nhìn vào cặp mắt tóe lửa vì giận của Lưu đại nhân, là bàn tay lão nhơm nhớp mồ hôi, mặc dù xưa nay lão chưa bao giờ ra mồ hôi tay. Lão ngước nhìn đàn bồ câu trắng lượn vòng không nghỉ, cánh trắng lấp lóa, hoa cả mắt. Hình bộ Tả Thị Lang Cương Nghị đại nhân – quan giám hình thứ nhất, ngồi dưới. Ông ta nhìn mặt trời rồi liếc sang các vị quân tử, hô bằng một giọng run rẩy:
– Giờ đã điểm!… Các phạm quan tạ thiên ân…
Triệu Giáp như được ân xá, vội quay lại đón thanh đao “Đại tướng” nặng trịch, chỉ chém đầu các quan từ tứ phẩm trở lên. Để tỏ lòng kính trọng Lưu đại nhân, lão thức trắng một đêm mài thanh đao sắc như nước, thổi đứt lông tơ. Lão lấy vạt áo lau hai bàn tay, tay phải nắm chặt cán đao để thân đao nằm ngang ngực, dọc theo bắp tay.
Sáu vị quân tử, người khóc, người thở dài.
Triệu Giáp lễ phép giục:
– Mời các đại nhân vào chỗ.
Đàm Tự Đồng gào to:
– Có tâm trừ giặc, lực bất tòng tâm, chết là đúng rồi, chém mau, chém mau!
Gào xong, ông ho rũ, mặt tím tái, mắt đỏ ngầu. Ông quì xuống đầu tiên, hai tay chống đất, cổ vươn ra, tóc xõa không còn bím rủ xuống đất.
Các ông Húc, Thâm Tú, Quảng Nhân, Nhuệ lần lượt quì theo Đàm Tự Đồng. Lâm Húc khóc hu hu như một cô gái bị hàm oan. Quảng Nhân khóc rất to, tay đập đập xuống bục hành hình. Dương Thâm Tú hai tay chống đất, hai mắt ngó quanh, không ai hiểu ông nghĩ gì? Duy chỉ Lưu Quang Đệ đầu ngẩng cao, người đứng thẳng, không chịu quì. Triệu Giáp nhìn chăm chăm vào đôi ủng rách của Lưu đại nhân, ngại ngùng giục:
– Đại nhân… xin vào chỗ…
Lưu Quang Đệ trợn mắt nhìn quan giám hình Cương Nghị phía dưới, hỏi dồn:
– Tại sao chưa vấn cung đã chém?
Cương Nghị không dám nhìn thẳng vào mắt Lưu Quang Đệ, vội ngoảnh bộ mặt béo phị đen nhẻm sang bên.
Lưu Quang Đệ tiếp tục hỏi dồn:
– Tại sao chưa tra hỏi đã chém? Phép nước có còn không?
– Bản quan chỉ biết phụng mệnh giám trảm, ngoài ra không biết gì hết, mong Bùi thôn huynh thông cảm… – Cương Nghị lúng túng ra mặt.
Dương Nhuệ quì bên cạnh, thò tay kéo gấu áo Lưu Quang Đệ, nói:
– Bùi thôn huynh, sự tình đã như thế này, còn gì để nói nữa. Quì xuống đi, tuân chỉ đi!…
– Ôi nhà Đại Thanh! – Lưu Quang Đệ thở dài, sửa lại quần áo, quì xuống bục. Phía dưới, viên quan Tư Sự đứng sau Cương Nghị, cao giọng tuyên thị:
– Tạ ơn Lão Phật gia!
Trong sáu vị quân tử, chỉ bốn vị Lâm Phúc, Dương Thâm Tú, Khang Quảng Nhân, Dương Nhuệ lạy đủ ba lạy chín khấu đầu, còn Đàm Tự Đồng và Lưu Quang Đệ thì không.
Viên Tư Sự tuyên thị tiếp:
– Phạm quan khấu đầu tạ ơn Hoàng thượng!
Lần này thì cả sáu vị đều khấu đầu. Đàm Tự Đồng dập đầu lia lịa, kêu la thảm thiết:
– Hoàng thượng ôi Hoàng thượng! Suýt nữa công thành, Hoàng thượng ôi!…
Lưu Quang Đệ dập đầu kêu bịch bịch, hai hàng nước mắt giàn giụa thấm đẫm khuôn mặt gầy guộc.
Quan giám hình Cương Nghị giận tím mặt, quát:
– Thi hành án!
Triệu Giáp vái dài xáu vị quân tử, nói khẽ:
– Tiểu nhân xin tiễn các vị về nơi của mình.
Lão hít một hơi, loại bỏ các ý nghĩ trong đầu, tập trung sức và tâm trí vào cổ tay phải. Lão cảm thấy người với đao hòa làm một. Lão bước lên một bước, tay trái nắm lấy chót đuôi sam Lưu Quang Đệ, dùng sức kéo ngược để cổ ông ta vươn dài ra. Bằng vào kinh nghiệm lâu năm, lão thoáng cái đã nhìn ra đốt xương nào trên cổ đao đi ngọt. lão vặn mình sang phải, toan để đao chuyển động theo người, nhẹ nhàng xén đầu Lưu Quang Đệ, bỗng có tiếng rú thất thanh trong đám người xem:
– Cha ơi!…
Một thanh niên gầy gom, tóc tai rũ rượi, loạng choạng chạy lên. Triệu Giáp vội thu lưỡi đao đã kề cổ Lưu Quang Đệ. Cổ tay của lão đã cảm nhận được sức nặng của thanh “Đại tướng” dằn xuống để uống máu người. Người thanh niên đó là công tử Lưu Phác, cách đây mấy năm, lão đã từng gặp trong một ngôi miếu gần Tây Trực Môn. Một tình cảm thương xót mà bao năm nay, vì tình cảm nghề nghiệp trang nghiêm phải cố nén, nay ùa ra như dòng nước. Đám lính dõng sực tỉnh sau phút ngẩn người, xách giáo chạy ùa lên. Quan giám hình Cương Nghị đại nhân hốt hoảng đứng bật dậy, thất thanh: “Bắt lấy nó! Bắt lấy nó!”. Các vệ sĩ sau lưng ông ta, tuốt đao xông ra. Khi đao kiếm chưa kịp chạm đến người, Lưu Phác đã quì sụp trước mặt Cương Nghị, khẩn khoản:
– Đại nhân mở lòng nhân đức… cho tiểu nhân được chết thay cha…
Lưu Quang Đệ ngầng đầu lên, nghẹn ngào:
– Phác, con đừng ngốc…
Lưu Phác lết bằng gối mấy bước, ngước nhìn cha:
– Cha, cho con được chết thay cha…
– Ôi, con tôi… – Lưu Quang Đệ than thở, khuôn mặt khô héo, nỗi đau làm ông rúm người lại, dặn con – Sau khi cha chết, chớ nên phúng viếng linh đình, ai phúng tiền thì một đồng cũng không nhận, không cần đưa linh cữu về quê, kiếm nơi nào gần mà chôn. Mọi việc xong xuôi, con và mẹ phải về ngay Tứ Xuyên, không được ở lại kinh thành. Con cháu ta có thể đi học để hiểu đạo lý, dứt khoát không thi cử làm quan. Đây là lời dặn dò cuối cùng của ta, con về nhà ngay, không được ở lại đây làm ta rối trí – Nói xong, ông nhắm mắt lại, vươn cổ, bảo Triệu Giáp:
– Già Triệu, động thủ thôi, nghĩ tình giao hảo giữa ông với ta, ông làm gọn một chút.
Triệu Giáp mắt mọng nước, suýt trào ra ngoài. Lão nói nhỏ:
– Xin đại nhân yên tâm.
Lưu Phác lại lết đến trước mặt Cương Nghị, khẩn khoản:
– Đại nhân… đại nhân… Cho tiểu nhân được chịu hình phạt thay cha…
Cương Nghị lấy ống tay áo che mặt:
– Đuổi nó ra!
Mấy lính dõng tiến đến, lôi Lưu Phá lúc này gần như ngất xỉu ra ngoài.
– Thi hành án! – Cương Nghị đích thân điều hành.
Triệu Giáp lại lần nữa túm lấy đuôi sam Lưu Quang Đệ, nói nhỏ: “Bẩm, xin đắc tội với đại nhân!” – Rồi, xoay nửa người nhanh như chớp, đầu Lưu Quang Đệ đã trong tay lão. Lão cảm thấy đầu ông rất nặng, nặng hơn tất cả những cái đầu mà lão đã chặt. Lão cảm thấy thanh đao nặng bằng cái đầu. Lão giơ cao đầu Lưu Quang Đệ, nói với giám hình quan phía dưới:
– Mời đại nhân nghiệm thu.
Cương Nghị đưa mắt nhìn một cái rồi hốt hoảng quay đi.
Theo qui định, Triệu Giáp giơ cao cái đầu cho mọi người xem. Phía dưới tiếng hoan hô xen lẫn tiếng khóc. Lưu Phác ngất đi. Triệu Giáp thấy cái đầu hai mắt tròn xoe, lông mày dựng ngược, hàm răng đánh vào nhau phát thành tiếng. Lão tin chắc rằng, cái đầu vẫn tiếp tục suy nghĩ, mắt Lưu Quang Đệ vẫn nhìn thấy lão. Cánh tay phải xách đầu vừa mỏi vừa tê, cái đuôi sam trơn như một con lệch định thoát khỏi tay lão. Lão trông thấy mắt Lưu Quang Đệ ứa ra hai giọt lệ, sau đó tối dần đi, như cục than hồng gặp nước.
Triệu Giáp đặt cái đầu Lưu Quang Đệ xuống, thấy sắc mặt người chết thanh thản, lão cảm thấy được an ủi rất nhiều. Lão lẩm bẩm, Lưu đại nhân, tiểu nhân làm tương đối gọn, không để đại nhân khổ thêm, vậy là không uổng cái tình thân hữu giữa hai ta.
Tiếp theo, được đồ đệ giúp sức, vẫn với đao pháp chớp nhoáng như thế, lão xén rơi đầu các vị Đàm, Lâm, Dương, Khương, Khang. Lão biểu thị niềm tôn kính với các vị bằng công nghệ chặt đầu siêu việt của lão.
Vụ đại hình long trời lở đất kết thúc, dân chúng bàn tán sôi nổi. Dư luận xoay quanh hai vấn đề, một là tài nghệ cao cường của đao phủ Triệu Giáp; hai là, những biểu hiện khác nhau khi chết của sáu vị quân tử. Người ta đồn rằng, cái đầu Lưu Quang Đệ sau khi lìa khỏi thân, đã chảy nước mắt, miệng thì cứ gọi Hoàng thượng. Đàm Tự Đồng đầu đã lìa khỏi cổ, vẫn cao giọng ngâm một bài thơ thất ngôn bát cú.
Những lời đồn đại nửa hư nửa thực trong dân đã đem lại vinh dự to lớn cho Triệu Giáp, khiến nghề đao phủ vừa cỗ lỗ vừa ti tiện, lần đầu tiên lọt vào mắt xanh người đời, được đời vị nể. Những lời đồn thổi như cơn gió nhẹ lọt vào cung đình, vào tai Từ Hi Hoàng Thái Hậu, trải thảm cho niềm vinh dự to lớn của Triệu Giáp sau đó.
(Còn tiếp)